VỚI CTY CP ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI ÔTÔ QUỐC TẾ VÀ CTY CP TRUYỀN THÔNG OXY DO ĐƠN VỊ MỚI ĐƯỢC CẤP GIẤY HỢP QUY CUỐI NĂM 2012 NÊN CHƯA TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ CHƯA CÓ SẢN PHẨM HỢP QUY CUNG CẤP CHO THỊ TRƯỜNG
I. Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng
Sau khi nghe đại diện Cty Tây Nam bộ giới thiệu về sản phẩm NPK Phú Mỹ 16-16-8 13S và hướng dẫn cách sử dụng của sản phẩm đối với các loại cây trồng nông dân đã đặt nhiều câu hỏi liên quan đến đặc tính kỹ thuật của sản phẩm, giá cả cũng như chương trình bán hàng trực tiếp... Được biết trong ngày diễn ra hội thảo, tổng lượng phân bón NPK Phú Mỹ bán ra lên tới trên 40 tấn. Khởi công xây dựng nhà máy sản xuất phân bón NPK phức hợp Nhà máy có tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng 106 tỷ đồng; sử dụng khoảng 150 lao động. Dự kiến đi vào sản xuất vào trung tuần tháng 6/2014. Ông Trần Anh - Tổng giám đốc nhà máy phân bón Hà Lan cho biết, công nghệ hóa lỏng urê đáp ứng hầu hết nhu cầu dinh dưỡng cho các loại cây trồng, sản phẩm sản xuất có hàm lượng dinh dưỡng cao và kết hợp nhiều yếu tốt dinh dưỡng trong mỗi viên phân, khi bón phân sẽ tan nhanh, cây trồng dễ hấp thụ, giảm hàm lượng lưu huỳnh trong phân nhằm làn giảm độ chua của đất, giảm thất thoát dinh dưỡng hop quy, phan bon npk do điều kiện thời tiết gây ra... Phương Nhi .. Đối với Cty CP giải pháp dịch vụ số DSS còn một số sai sót, hay lấy panh cặp ít bong chấm nhẹ phấn ở nhị đực rồi quét lên nuốm nhụy cái. Giá nhiều loại phân DAP nhập ngoại thời gian qua đã liên tục giảm mạnh và hiện còn ở mức thấp, chị Hoàng Thị Liên nằm liệt giường được hỗ trợ 100 nghìn ăn tết cũng phải nộp lại cho ông Nam trưởng xóm. Các nhà khoa học đã đề ra một quy trình bón NPK thích hợp cho lúa ở các vùng trong cả nước, giá các loại phân bón biến động không nhiều. Và sản phẩm DAP-Avail ra đời giúp nông dân giảm lượng DAP cần bón, vụ đông 2014 này dưa chuột Nhật xuất khẩu bà con trồng được mùa.
Cụ thể, phân urê Phú Mỹ Đạm Phú Mỹ có giá 535.000 - 540.000 đồng/bao giảm 75.000 - 80.000 đồng/bao so với mức giá hồi tháng 9, urê Trung Quốc cũng giảm 90.000 - 100.000 đồng/bao xuống còn 495.000 - 500.000 đồng/bao. Phân DAP Philippines vào thời điểm giữa tháng 9 có giá dao động từ 940.000 - 950.000 đồng/bao, nay chỉ còn 890.000 - 895.000 đồng/bao, DAP Trung Quốc cũng giảm mạnh xuống còn 780.000 - 800.000 đồng/bao. Các loại phân NPK 20-20-15, NPK 16-16-8, giảm bình quân 100.000 đồng/bao, xuống mức giá lần lượt là 645.000 - 650.000 đồng/bao và 575.000 - 580.000 đồng/bao. Trung tâm Bảo vệ Thực vật phía Nam cho biết, hiện toàn vùng ĐBSCL đã xuống giống được khoảng 170.000 - 180.000ha lúa đông - xuân 2011-2012. Đến cuối tháng 11 này, các địa phương như Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp sẽ đẩy mạnh xuống giống vụ lúa đông - xuân, vì vậy nhu cầu sử dụng phân bón được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao. TH.TUYẾT. Mặc dù giá phân bón và nguyên liệu sản xuất phân bón trên thị trường thế giới tăng, nhất là phân DAP và phân SA; giá Kali bắt đầu tăng trở lại ở mức 410 USD/tấn nhưng giá phân bón trong nước chỉ tăng nhẹ do nguồn cung dồi dào. Các doanh nghiệp cũng rất hạn chế nhập khẩu phân bón để theo dõi biến động của thị trường. Hiện giá phân urê Hà Bắc khoảng 6.650 đồng đến 6.750 đồng/kg, urê Phú Mỹ 6.900 đồng/kg; phân NPK ở mức 3.050 đồng/kg; supe lân Lâm Thao 2.060 đồng/kg. Tình hình sản xuất phân bón hai tháng qua vẫn tiếp tục giảm. Phân urê chỉ đạt hơn 132.000 tấn, giảm 20% do sản lượng của Nhà máy Phân đạm Hóa chất Hà Bắc giảm tới 61,4% vì sự cố phải dừng máy để sửa chữa từ giữa tháng hai; phân NPK đạt 166.000 tấn, giảm 12,1%; phân lân cũng chỉ đạt 213.000 tấn, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm ngoái./. Văn Xuyên Vietnam+. Xem xét tăng thuế nhập khẩu phân bón Đã có đề xuất tăng giá xuất khẩu phân bón. Lý do tăng thuế nhập khẩu được Bộ Tài chính đưa ra là lượng phân bón sản xuất trong nước tồn kho nhiều, riêng 4 nhà máy thuộc Tập đoàn Hóa chất dư khoảng 300.000 tấn/năm nhưng lượng phân bón nhập khẩu vẫn tăng mạnh. Trong năm 2013, phân urê nhập khẩu tăng 58,3% tương đương 798.000 tấn, phân NPK tăng 23,5% tương đương 421.000 tấn và phân bón loại khác tăng 3,54 triệu tấn, giảm nhẹ 0,9% so với năm 2012. Để hạn chế nhập khẩu phân bón, Bộ Tài chính thấy cần thiết phải tăng thuế suất nhập khẩu ưu đãi với mặt hàng này. Sản phẩm NPK cao cấp Hữu Nghị do Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị - Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài sản xuất. Hiện tại, đây là Nhà máy đầu tiên và duy nhất tại miền Bắc sản xuất phân bón NPK cao cấp theo công nghệ hiện đại nhất hiện nay - công nghệ hóa lỏng urê và tạo hạt bằng hơi nước. Sản phẩm đã có mặt ở tất cả các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ với nhiều chủng loại NPK 20-20-15+TE, NPK 16-16-8+13S, NPK 15-5-16+TE, NPK 13-13-13+TE, NPK 13-7-5+TE... Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho tất cả các loại cây trồng theo từng giai đoạn bón lót, bón thúc.Vụ mùa vừa qua, Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đã phối hợp với UBND các huyện ở nhiều địa phương tổ chức các mô hình trình diễn đánh giá hiệu quả sử dụng phân bón Hữu Nghị so với các loại phân bón khác trên các vùng đất khác nhau. Kết quả người dân đánh giá phân bón Hữu Nghị phù hợp với các loại chất đất, vùng miền, cây trồng, đặc biệt là cho năng suất cây trồng cao, chống chịu được sâu, bệnh và giúp cây cứng hơn nên phòng được việc đổ ngã của cây và hạn chế được sâu, bệnh tàn phá mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các loại phân đối chứng.Qua tìm hiểu thực tế ở một số địa phương tổ chức mô hình, chúng tôi ghi lại được các ý kiến đánh giá của việc sử dụng phân bón Hữu Nghị. Tại xã Thiệu Vân Thiệu Hóa - Thanh Hóa, một xã thuần nông lâu nay chỉ quen sử dụng phân NPK hàm lượng dinh dưỡng thấp và phân đơn.Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK chất lượng cao theo công nghệ hiện đại, tự động hóa hoàn toàn bằng phần mềm vi tính cho ra những sản phẩm phân bón hàm lượng dinh dưỡng cao, đồng đều, ổn định về chất lượng, viên phân sạch sẽ, chắc bóng, lượng bón ít làm giảm các chi phí chăm bón, vận chuyển, lưu thông, bảo vệ môi trường và sức khỏe người sử dụng, nâng hiệu quả sản xuất. Ông Hoàng Đức Thiện - thôn Phúc Hòa, xã Thiệu Vân cho biết: Tôi có 4 sào ruộng trồng lúa. Cả hai vụ gần đây, tôi bón phân Hữu Nghị. Bằng kinh nghiệm trồng lúa lâu năm, tôi nhận thấy, khi bón phân Hữu Nghị cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, lúa đẻ, trổ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng loại phân này hạn chế được tối đa sâu, bệnh phá hoại. Đặc biệt năng suất lúa tăng rõ rệt, cao hơn so với ruộng không sử dụng phân bón Hữu Nghị 50kg/sào”.Đồng quan điểm với ông Thiện, anh Thiều Quang Khuyên - thôn 9, xã Yên Phong Yên Định - Thanh Hóa nhận định: Vụ mùa này, được sự khuyến cáo của các cán bộ nông nghiệp, tôi và một số hộ trong thôn đã thay đổi cách sử dụng phân bón. Quá trình chăm sóc, theo dõi tôi thấy rằng, lúa có sử dụng phân Hữu Nghị thì cây cứng và tỷ lệ hạt chắc nhiều hơn. Về mặt Hợp quy, phân bón npk sản lượng thì cao hơn ruộng không sử dụng phân Hữu Nghị khoảng 35-40kg/sào. Và thực tế theo hướng dẫn của Phòng NN- PTNT huyện và Công ty, chúng tôi bón đúng quy định như vậy thì thấy số lượng bón phân Hữu Nghị chỉ chưa đến ½ so với số lượng của một số loại phân NPK khác. Không chỉ có giảm đi chi phí chăm bón mà còn giảm được chi phí thuốc BVTV.Với suy ngẫm là phải dùng loại phân bón nào mà số lượng bón ít, giảm công sức và chi phí, nhiều hộ dân của huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã mạnh dạn đưa phân Hữu Nghị vào đồng ruộng. Vụ mùa vừa rồi, các hộ sử dụng phân bón Hữu Nghị tại huyện Ninh Giang phấn khởi lắm. Anh Phạm Gia Thạo - thôn Vĩnh Xuyên đã mạnh dạn bón phân Hữu Nghị cho toàn bộ diện tích lúa vụ mùa của gia đình. Nói chuyện với chúng tôi, anh Thạo khoe: Dùng phân này chúng tôi thấy rõ cây cứng, không bị đổ ngã trong khi các ruộng xung quanh bón phân khác qua đợt mưa to vừa rồi đều đổ hết”.. Sản phẩm NPK cao cấp Hữu Nghị do Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị - Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài sản xuất. Hiện tại, đây là Nhà máy đầu tiên và duy nhất tại miền Bắc sản xuất phân bón NPK cao cấp theo công nghệ hiện đại nhất hiện nay - công nghệ hóa lỏng urê và tạo hạt bằng hơi nước. Sản phẩm đã có mặt ở tất cả các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ với nhiều chủng loại NPK 20-20-15+TE, NPK 16-16-8+13S, NPK 15-5-16+TE, NPK 13-13-13+TE, NPK 13-7-5+TE... Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho tất cả các loại cây trồng theo từng giai đoạn bón lót, bón thúc.Vụ mùa vừa qua, Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đã phối hợp với UBND các huyện ở nhiều địa phương tổ chức các mô hình trình diễn đánh giá hiệu quả sử dụng phân bón Hữu Nghị so với các loại phân bón khác trên các vùng đất khác nhau. Kết quả người dân đánh giá phân bón Hữu Nghị phù hợp với các loại chất đất, vùng miền, cây trồng, đặc biệt là cho năng suất cây trồng cao, chống chịu được sâu, bệnh và giúp cây cứng hơn nên phòng được việc đổ ngã của cây và hạn chế được sâu, bệnh tàn phá mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các loại phân đối chứng.Qua tìm hiểu thực tế ở một số địa phương tổ chức mô hình, chúng tôi ghi lại được các ý kiến đánh giá của việc sử dụng phân bón Hữu Nghị. Tại xã Thiệu Vân Thiệu Hóa - Thanh Hóa, một xã thuần nông lâu nay chỉ quen sử dụng phân NPK hàm lượng dinh dưỡng thấp và phân đơn.Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK chất lượng cao theo công nghệ hiện đại, tự động hóa hoàn toàn bằng phần mềm vi tính cho ra những sản phẩm phân bón hàm lượng dinh dưỡng cao, đồng đều, ổn định về chất lượng, viên phân sạch sẽ, chắc bóng, lượng bón ít làm giảm các chi phí chăm bón, vận chuyển, lưu thông, bảo vệ môi trường và sức khỏe người sử dụng, nâng hiệu quả sản xuất. Ông Hoàng Đức Thiện - thôn Phúc Hòa, xã Thiệu Vân cho biết: Tôi có 4 sào ruộng trồng lúa. Cả hai vụ gần đây, tôi bón phân Hữu Nghị. Bằng kinh nghiệm trồng lúa lâu năm, tôi nhận thấy, khi bón phân Hữu Nghị cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, lúa đẻ, trổ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng loại phân này hạn chế được tối đa sâu, bệnh phá hoại. Đặc biệt năng suất lúa tăng rõ rệt, cao hơn so với ruộng không sử dụng phân bón Hữu Nghị 50kg/sào”.Đồng quan điểm với ông Thiện, anh Thiều Quang Khuyên - thôn 9, xã Yên Phong Yên Định - Thanh Hóa nhận định: Vụ mùa này, được sự khuyến cáo của các cán bộ nông nghiệp, tôi và một số hộ trong thôn đã thay đổi cách sử dụng phân bón. Quá trình chăm sóc, theo dõi tôi thấy rằng, lúa có sử dụng phân Hữu Nghị thì cây cứng và tỷ lệ hạt chắc nhiều hơn. Về mặt sản lượng thì cao hơn ruộng không sử dụng phân Hữu Nghị khoảng 35-40kg/sào. Và thực tế theo hướng dẫn của Phòng NN- PTNT huyện và Công ty, chúng tôi bón đúng quy định như vậy thì thấy số lượng bón phân Hữu Nghị chỉ chưa đến ½ so với số lượng của một số loại phân NPK khác. Không chỉ có giảm đi chi phí chăm bón mà còn giảm được chi phí thuốc BVTV.Với suy ngẫm là phải dùng loại phân bón nào mà số lượng bón ít, giảm công sức và chi phí, nhiều hộ dân của huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã mạnh dạn đưa phân Hữu Nghị vào đồng ruộng. Vụ mùa vừa rồi, các hộ sử dụng phân bón Hữu Nghị tại huyện Ninh Giang phấn khởi lắm. Anh Phạm Gia Thạo - thôn Vĩnh Xuyên đã mạnh dạn bón phân Hữu Nghị cho toàn bộ diện tích lúa vụ mùa của gia đình. Nói chuyện với chúng tôi, anh Thạo khoe: Dùng phân này chúng tôi thấy rõ cây cứng, không bị đổ ngã trong khi các ruộng xung quanh bón phân khác qua đợt mưa to vừa rồi đều đổ hết”. Công trình tạo hạt phân bón hỗn hợp NPK bằng thiết bị thùng quay hơi nước lần đầu tiên được nghiên cứu áp dụng ở Việt Nam tại Công ty CP phân bón hóa chất Cần Thơ là một bước ngoặt trong công nghệ sản xuất phân bón NPK. CôngThương - Trước năm 1998, toàn bộ phân bón hỗn hợp NPK một hạt đều tạo trên thiết bị đĩa quay. Sản xuất theo công nghệ cũ này thường gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy. Đầu năm 1998, dây chuyền tạo hạt phân bón hỗn hợp NPK bằng thiết bị thùng quay hơi nước đã được công ty nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sử dụng vật tư hoàn toàn trong nước. Phương pháp này đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền Giải pháp hữu ích. Đặc điểm của dây chuyền là đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm trên nền tảng sử dụng được nhiều chủng loại nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm sản xuất bằng công nghệ tạo hạt thùng quay dùng hơi nước có tính vượt trội hơn so với công nghệ tạo hạt bằng đĩa quay sử dụng nước. Công ty CP phân bón hóa chất Cần Thơ là đơn vị đầu tiên trong ngành phân bón đầu tư áp dụng. Thời điểm năm 1998, phát huy nội lực, công ty đã tự nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, lắp đặt dây chuyền sản xuất phân bón NPK tạo hạt thùng quay dùng hơi nước công suất 30 nghìn tấn/năm. Sau khi đưa vào vận hành sản xuất ổn định, công ty tiếp tục hoàn thiện dây chuyền thiết bị và đầu tư lắp đặt dây chuyền số 2 vào năm 2000. Năm 2006, công ty lắp đặt hệ thống lò đốt hơi và lò đốt sấy sử dụng bằng than song song với lò đốt dầu, nhằm linh động trong sản xuất, phù hợp với giá cả nhiên liệu trong từng thời điểm, mang lại hiệu quả kinh tế. Kết quả điều tra cho thấy, tính đến nay, thị trường có mức tăng trưởng bình quân là 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 15- 20%/năm. Từ năm 2003 đến nay, toàn bộ 2 dây chuyền sản xuất đã phát huy hết công suất. Năm 2007, công ty tiếp tục nghiên cứu thiết kế, chế tạo và đầu tư dây chuyền số 3 trên cơ sở nhà xưởng sản xuất phân bón NPK hỗn hợp đĩa quay dùng nước. Hiện sản lượng phân bón hỗn hợp NPK hợp quy, phân bón npk hơi nước của công ty đạt 150 nghìn tấn/năm, với vốn đầu tư khoảng 2 triệu USD. So với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị từ nước ngoài, tiết kiệm được hàng triệu USD. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. Công nghệ này còn có hệ thống xử lý các chất thải rắn, đảm bảo tỷ lệ hao hụt thấp và tính thân thiện với môi trường. Nhờ những ưu điểm vượt trội đó mà sản phẩm NPK hạt sản xuất bằng thiết bị thùng quay hơi nước ngày càng chiếm lĩnh thị trường, từ đồng bằng sông Cửu Long đến Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ, kể cả xuất khẩu; góp phần chuyển thị hiếu của nông dân quen sử dụng phân NPK ba màu sang phân bón NPK hơi nước một màu, đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. Cây lạc rất mẫn cảm với đất mặn nhưng lại chịu được một giới hạn rộng của độ pH đất. Tuy nhiên giới hạn thích hợp nhất của độ pH cho cây lạc là đất trung tính hoặc chua nhẹ. Trong trường hợp pH đất Ở nước ta cây lạc được trồng chủ yếu ở những chân đất xám bạc mầu trên phù sa cổ, đất phù sa có thành phần cơ giới nhẹ, số ít được trồng trên đất đỏ bazan... Loại đất này rất thích hợp về mặt lý tính cho cây lạc, nhưng lại nghèo dinh dưỡng. Chính vì vậy trong nghề đã được truyền bá câu phương ngôn: Không lân, không vôi, thì thôi trồng lạc”.Ở mỗi vùng, địa phương đều đã có quy trình sản xuất lạc, trong đó đã nói đến việc bón bao nhiêu phân chuồng, bao nhiêu vôi, bao nhiêu phân NPK, và bón vào lúc nào. Chúng tôi chỉ muốn phân tích thêm một số yếu tố dinh dưỡng mà nếu không quan tâm đúng mức sẽ gây ra những khác biệt, hoặc không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của cây lạc.Nguyên liệu cung cấp canxi cho cây lạc và nâng cao pH đất chủ yếu được nhắc đến là vôi. Nhưng nếu sử dụng vôi không đúng cách sẽ có một số khiếm khuyết sau:Nếu bón quá nhiều vôi sẽ gây hiện tượng thiếu sắt Fe và Bo B cho cây lạc, và đây cũng là vấn đề thường gặp phải trong sản xuất.Bón vôi và phân NPK nếu không quan tâm đến lưu huỳnh S trong thành phần phân bón khiến cây lạc giảm năng suất và chất lượng hạt.Cây lạc là cây trồng cần rất nhiều đạm để hình thành thân lá và sản phẩm quả, hạt. Người ta thấy rằng 1kg đạm N chỉ hình thành được 36kg thân, lá, củ lạc biomass, trong khi cũng 1kg N lại có thể hình thành được tới 120kg thân lá cây cao lương. Chính vì vậy các bộ phận thân, lá, củ của cây lạc có giá trị dinh dưỡng rất cao so với các cây hòa thảo khác. Tuy vậy, nhờ khả năng cố định đạm của nốt sần rễ cây nên phần lớn nhu cầu N của cây khoảng 80% đã được cây tự đáp ứng nếu việc hình thành nốt sần xảy ra bình thường. Trong nhiều trường hợp nốt sần rất khó hình thành, như trồng lạc trên đất mới, trên đất sau khi trồng lúa nước v.v. Trong trường hợp như vậy ta phải có giải pháp xử lý hạt bằng các chế phẩm vi sinh rhizobium và mycorrhizae, hoặc phải tăng lượng cung cấp phân đạm trực tiếp cho lạc nếu không có điều kiện xử lý.Một vấn đề khác, đặc tính cây lạc là hấp thu canxi chủ yếu bằng củ khi củ đang lớn, nên việc bón vôi cho cây phải bón vào vùng quanh gốc cây vùng tia lạc đâm xuống thì cây mới hấp thu dễ dàng, vì canxi trong đất rất khó di chuyển. Thiếu canxi củ lạc sẽ bị ốp tức củ rỗng và mất năng suất.Lưu huỳnh S giúp cây chống lại các bệnh nấm và tăng hàm lượng protein trong hạt. Trong thành phần phân bón phải tính đủ lượng S cho cây. Có thể dùng các loại phân có chứa S như super lân, phân đạm SA hay dùng canxi dưới dạng thạch cao để bón. Lượng lưu huỳnh phải đạt khoảng 30-50kg S/ha.Một số trường hợp cây lạc có thể bị thiếu sắt gây bệnh bạc lá, nhưng ít gặp ở nước ta, nếu ta không bón quá nhiều vôi. Nếu gặp trường hợp này có thể khắc phục bằng cách phun sắt sulfat FeSO4.7H2O cho cây với nồng độ khoảng 0,2%, hoặc dùng loại chế phẩm phân bón lá giầu sắt để phun. Trong trường hợp thiếu sắt kiểu này có thể kèm theo việc thiếu Bo B, nên phun kèm với Bo để khắc phục sự cố này. Dùng borax pha khoảng 10g/bình 10 lít để phun. Dứa là cây ăn quả nhiệt đới, còn được gọi là thơm, khóm thuộc họ Dứa Bromeliaceae có nguồn gốc Nam Mỹ Brazil, Achentina, Paragoay. Ở Việt Nam trồng các giống dứa như: Cayen Cayen Phú Hộ, Cayen Đức Trọng, Cayen Đà Lạt, Cayen Trung Quốc, Cayen Thái Lan, Cayen Long Định 2...; Queen dứa Hoa Phú Hộ, dứa Na Hoa, dứa Hoa Nam Bộ...; dứa Spanish dứa Tây Ban Nha, dứa Tây Ban Nha Đỏ, dứa Mật.... Yêu cầu về đất và dinh dưỡng Cây dứa có thể phát triển trong điều kiện nhiệt độ từ 15 0 C đến 40 0 C, thích hợp nhất từ 28 0 C đến 32 0 C; có phản ứng ngày ngắn nên mùa đông có thể ra hoa tự nhiên; cần nước nhưng không chịu úng; có thể trồng trên đất phù sa, đất xám bạc màu, đất phèn, đất đỏ feralit...; có thể phát triển trong điều kiện pH KCL từ dưới 4,0 đến 6,0 tùy theo giống dứa Queen pH KCL < 4,0;="" dứa="" spanish="" ph="" kcl="" 4,5="" -="" 5,0;="" dứa="" cayen="" ph="" kcl="" 5,6="" -="" 6,0;="" cần="" thiết="" các="" yếu="" tố="" dinh="" dưỡng="" đa,="" trung,="" vi="" lượng="" nhưng="" đặc="" biệt="" chú="" ý="" yếu="" tố="" magiê.="" để="" tạo="" nên="" một="" tấn="" dứa="" quả,="" cây="" dứa="" lấy="" đi="" từ="" đất:="" 3,8="" -="" 5,0="" kg="" n;="" 0,9="" -="" 1,6="" kg="" p="" 2="" o="" 5="" ;="" 6,0="" -="" 7,1="" kg="" k="" 2="" o;="" 1,0="" -="" 1,5="" kg="" cao;="" 0,3="" -="" 0,5="" kg="" mgo.="" thời="" vụ="" và="" kỹ="" thuật="" trồng="" ở="" các="" tỉnh="" miền="" bắc:="" vụ="" xuân="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 3="" -="" 4;="" vụ="" thu="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 8="" -="" 9.="" ở="" các="" tỉnh="" bắc="" trung="" bộ="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 6="" -="" 7;="" nam="" trung="" bộ="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 9="" -="" 10.="" ở="" các="" tỉnh="" đồng="" bằng="" sông="" cửu="" long,="" đông="" nam="" bộ="" có="" thể="" trồng="" quanh="" năm="" nhưng="" tốt="" nhất="" là="" vào="" đầu="" và="" cuối="" mùa="" mưa.="" dứa="" được="" trồng="" theo="" hàng="" kép="" đôi,="" mật="" độ="" 50="" -="" 60="" ngàn="" chồi.="" cây="" dứa="" ra="" hoa="" sau="" trồng="" 16="" -18="" tháng="" tùy="" theo="" giống="" và="" vụ="" trồng.="" sử="" dụng="" phân="" bón="" lâm="" thao="" npk-s="" cho="" cây="" dứa="" bón="" lót="" theo="" hốc="" hoặc="" theo="" hàng,="" rạch="" trước="" khi="" trồng="" 3="" -="" 4="" ngày.="" bón="" thúc="" 3="" lần:="" sau="" trồng="" 2="" -="" 3="" tháng;="" sau="" trồng="" 5="" -="" 6="" tháng;="" trước="" xử="" lý="" ra="" hoa="" 2="" tháng.="" khi="" dứa="" đã="" có="" quả="" không="" bón="" thúc="" đạm.="" lượng="" phân="" bón="" cho="" cây="" dứa,="" tính="" trên="" 1="" ha="" kg/10.000="" m="" 2="" thời="" kỳ="" bón="" loại="" phân="" bón="" lót="" hoặc="" bón="" sau="" thu="" hoạch="" bón="" thúc="" sau="" trồng="" 2-3="" tháng="" bón="" thúc="" sau="" trồng="" 5-6="" tháng="" bón="" thúc="" trước="" ra="" hoa="" 2="" tháng="" phân="" chuồng="" hoai="" 5.000="" ÷="" 10.000="" npk-s="" 5.10.3-8="" 585="" ÷="" 695="" npk-s="" 12.5.10-14="" hoặc="" 10.5.10-5="" 585="" ÷="" 695="" 585="" ÷="" 695="" 585="" ÷="" 695="" lượng="" phân="" bón="" cho="" dứa,="" tính="" cho="" 1="" sào="" bắc="" bộ="" kg/360="" m="" 2="" phân="" chuồng="" hoai="" 200="" ÷="" 400="" npk-s="" 5.10.3-8="" 20="" ÷="" 25="" npk-s="" 12.5.10-14="" hoặc="" 10.5.10-5="" 20="" ÷="" 25="" 20="" ÷="" 25="" 20="" ÷="" 25="" công="" ty="" cổ="" phần="" supe="" phốt="" phát="" &="" hóa="" chất="" lâm="" thao="" chúc="" bà="" con="" nông="" dân="" trồng="" dứa="" thơm,="" khóm="" sử="" dụng="" phân="" bón="" lâm="" thao="" đúng="" quy="" trình="" kỹ="" thuật="" để="" mang="" lại="" năng="" suất,="" chất="" lượng="" và="" hiệu="" quả="" kinh="" tế="">
II. Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng
Theo ý kiến của nhiều đại biểu thì khâu kiểm soát chất lượng khó nhất là phân bón NPK và phân bón vi sinh hỗn hợp, đến nay ATA cũng là Cty duy nhất đã làm được điều ấy. Theo ông Lê Ngọc Hoa - Tổng Giám đốc TCty Xây dựng công trình giao thông 4 Cienco 4, co… tổng dinh dưỡng trên 60%.+ Liều lượng và cách bón ĐVT kg/ha: Trồng mới: 400-500kg NPK 12.8.12 phân NPK Văn Điển loại 12.8.12 trộn đều đất trong hố trước khi đặt bầu.Năm thứ 2: 1.000 - 1.200kg NPK 12.8.12. Cụ thể các thương hiệu lớn như phân bón Bình Điền, chuyển giao quy trình kỹ thuật sử dụng phân bón NPK Lâm Thao khép kín cho cây khoai tây vụ đông kết hợp phương pháp làm đất tối thiểu cho toàn bộ 50 hộ tham gia mô hình. Bón cải tạo đất 500kg vôi bột hoặc 1.000kg Dolomite, còn lại đều là phân bón giả và kém chất lượng.....- Các nghiên cứu khoa học về bón phân cho cây lúa cho thấy, để đạt năng suất bình quân 8 tấn thóc/ha, cây lúa lấy đi từ đất khoảng 145kgN; 60kg P2O5; 150kg K2O, 250kg SiO2, 23kg MgO, 20kg CaO, 5kg S, 2kg Fe, 200g Zn, 150g B và 150g Cu trên mỗi ha.Như vậy thực tế cây lúa không chỉ cần 3 chất dinh dưỡng là đạm N lân P2O5, kali K2O mà còn cần silic nhiều hơn cả đạm, magiê MgO, vôi CaO, lưu huỳnh S với số lượng đáng kể, đồng thời các chất vi lượng như kẽm Zn, Bo B, sắt Fe và đồng Cu.Qua khảo sát thực tế lúa vụ xuân ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du Bắc Bộ cho thấy, ở địa phương nào bà con nông dân sử dụng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã giải quyết được 3 vấn đề lớn tồn tại trong sản xuất lúa hiện nay là: Giảm thiểu sâu bệnh gây hại, giảm thuốc trừ sâu, giảm lúa đổ ngã khi gặp mưa dông và năng suất lúa ngày càng tăng.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho cây lúa khác biệt các loại phân bón NPK thông thường ở chỗ: Ngoài các yếu tố dinh dưỡng đa lượng NPK giống như các loại phân bón NPK thông thường, Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển còn có đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng trung lượng như: Silic, magiê, can xi, lưu huỳnh chiếm tỷ lệ lớn trong phân bón, đồng thời các chất vi lượng kẽm, bo, sắt, đồng cũng rất cân đối. Bón phân NPK Văn Điển tức là đồng thời cung cấp đầy đủ một lúc 13 yếu tố dinh dưỡng cho cây lúa. Tất cả các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón NPK Văn Điển đều được cây lúa hấp thụ dễ dàng và hầu như không bị rửa trôi trong nước.Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cho lúa có các loại: NPK 6.11.2 và NPK5.10.3 dùng để bón lót trước khi cấy hoặc gieo sạ. NPK 16.5.17 dùng để bón thúc với hàm lượng các chất dinh dưỡng trong các loại phân trên như sau:- NPK 6.11.2 N = 6%; P = 11%; K = 2%; MgO = 10%; SiO2 = 15%; CaO = 20%; S = 2% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 66%.- NPK 5.10.3 N = 5%; P = 10%; K = 3%; MgO = 8%; SiO2 = 15%; CaO = 15%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 58%.- NPK 16.5.17 N = 16%; P = 5%; K = 17%; MgO = 5%; SiO2 = 7%; CaO = 8%; S = 1% và các chất vi lượng: Zn, B, Fe, Cu... Tổng dinh dưỡng 59%.Với cách bón trước khi cấy hoặc trước khi gieo sạ hàng, mỗi sào Bắc Bộ 360m2 được bón từ 20-25kg NPK6.11.2 hoặc sử dụng loại NPK5.10.3. Sau khi cấy khoảng 2 tuần khi lúa ra lá mới lá nõn chuối thì bón thúc 12-15 kg NPK 16.5.17, đối với lúa gieo sạ hàng thì được bón thúc ngay khi lúa có 3-4 lá.- Với chủng loại và cách bón như trên, phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển đã cung cấp đầy đủ cân đối tất cả các yếu tố dinh dưỡng mà cây lúa cần trong suốt thời gian sinh trưởng. Vì vậy cây lúa khỏe phát triển nhanh cân đối, đẻ nhánh gọn, cứng cây, dày lá, lá xanh sáng, các đối tượng sâu bệnh gây hại như cuốn lá nhỏ, rầy nâu, đạo ôn giảm 70-80% trên đồng ruộng. Khi thu hoạch, lá đòng vàng như lá gừng, lúa cứng cây không đủ ngã, hạt mẩy, vỏ hạt thóc sáng, năng suất cao, đặc biệt người trồng lúa giảm sử dụng thuốc trừ sâu, giảm công chăm bón và tăng thu nhập do lúa đạt năng suất cao và chất lượng tốt. P.V. Các sản phẩm phân bón được nông dân sử dụng trên địa bàn Hà Nội rất phong phú nhưng sản phẩm chủ lực đã thành truyền thống được tin dùng là phân bón của Công ty CP phân lân nung chảy Văn Điển và từ sử dụng phân đơn nay chủ yếu là bón phân đa yếu tố NPK. Ông Nguyễn Văn Hà - Trưởng phòng KN trồng trọt TT Khuyến nông Hà Nội cho biết, phân bón Văn Điển được dùng rộng rãi như vậy là qua nhiều mô hình trình diễn của khuyến nông và qua thực tế sản xuất các loại phân trên phù hợp với đất đai, trình độ canh tác nên phát huy được nhiều ưu thế nổi trội: Phân hòa tan dần trong môi trường axit yếu do rễ cây tiết ra nên lúa tốt bền, cây khỏe, hạn chế sâu bệnh, tăng khả năng chống chịu, tăng năng suất, giảm chi phí”. Ngoài phân lân đơn, công ty sản xuất ra nhiều loại phân đa yếu tố NPK mới phù hợp với từng loại đất, từng loại cây trồng và các giai đoạn sinh trưởng của cây lại có loại phân bón riêng. Sử dụng nhiều phân bón Văn Điển là các huyện vùng trũng như Thanh Oai, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Mỹ Đức. Ông Lê Văn Tín, chủ nhiệm HTX Ngọc Động, huyện Ứng Hòa nhận xét: Lúc đầu cây cằn nhưng sau đó lá xanh sáng, bộ lá bền đến chín, quả sáng tỷ lệ hạt chắc cao. Đậu tương bón phân NPK Văn Điển cho lá dày, thân cứng, tăng khả năng chịu rét, quả sai, hạt chắc”. Phân bón Văn Điển còn sử dụng phổ biến cho các loại cây trồng khác ở trên các vùng hoa huyện Mê Linh, vùng rau Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Đan Phượng, Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai. Các nhà khoa học đã nghiên cứu loại cây nào, từng giai đoạn sinh trưởng cần những chất gì, tỷ lệ bao nhiêu để giúp công ty sản xuất ra loại phân bón phù hợp với yêu cầu. Phân bón Văn Điển có đầy đủ 16 chất dinh dưỡng cho cây trồng trong đó có các chất đa lượng, trung lượng và vi lượng. Bà Nguyễn Thị Liên, Trạm trưởng Trạm khuyến nông huyện Phúc Thọ Hà Nội cho biết: Tuy sản phẩm của công ty Văn Điển sử dụng không nhiều như các huyện phía nam nhưng những HTX vùng trũng như Võng Xuyên, Phụng Thượng… bón phân Văn Điển rất tốt cho các loại cây trồng hiện có tại địa phương. Cam, bưởi, nhãn được bón phân NPK Văn Điển có tỷ lệ đậu quả cao, vỏ quả nhẵn, bóng đẹp, tăng vị ngọt thơm. Bón cho khoai tây củ nhiều, củ to, tỷ lệ nước trong củ thấp, ăn ngon, dễ bảo quản. Vụ xuân năm 2013 một số HTX của huyện Phúc Thọ được hỗ trợ phân NPK Văn Điển để làm mô hình điểm như Võng Xuyên, Phụng Thượng... Ông Khuất Văn Khoa, chủ nhiệm HTX Phụng Thượng cho biết: Phân NPK Văn Điển bón cho lúa lá vàng non, cứng cây, hạt đẹp, năng suất tăng khoảng 10%. Nông dân thích dùng NPK nhưng công tác thông tin tuyên truyền vẫn còn hạn chế. Thời tiết vụ xuân rét nhiều, để tăng khả năng chống rét cho cây, phòng bệnh nghẹt rễ lúa và ngô chân chì bằng bón lót lân hoặc phân NPK Văn Điển rất tốt”. Với sự đóng góp hiệu quả, thiết thực trong việc thâm canh cây trồng, cải tạo đất nhiều năm qua của phân bón Văn Điển nên công ty CP phân lân nung chảy Văn Điển xứng đáng là người bạn đồng hành, tin cậy của bà con nông dân Hà Nội. Chị Thủy, một chủ đại lý phân bón tại huyện An Nhơn, nói: Trước đây, mỗi khi bước vào vụ sản xuất mới là giá phân bón có tăng, nhưng tăng không đáng kể, chỉ khoảng 5 – 10 ngàn đồng/bao bao 50kg. Nhưng năm nay, tăng vọt, mức tăng 15 – 20%”. Một khách hàng cho biết thêm: Thời điểm này năm ngoái, phân đạm Phú Mỹ có giá 300 ngàn đồng/bao, nay tăng lên 360 ngàn đồng/bao. Phân NPK Hàn Quốc năm ngoái 520 ngàn đồng/bao, nay lên 620 ngàn đồng/bao. Phân NPK Phi-líp-pin 445 ngàn đồng/bao... Các loại phân khác như: Lân, kali… cũng tăng đáng kể.Cơ sở sản xuất phân bón tại địa phương là Nhà máy phân bón Long Mỹ Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Bình Định cũng đã điều chỉnh tăng giá. Cụ thể: Hiện nay phân NPK 20.20.15 giá 10.550 đồng/kg; NPK 16.8.4.5S giá 5.900 đồng/kg; NPK 20.0.10 giá 6.400 đồng/kg; NPK BT 1 giá 9000 đồng/kg, NPK BT 3 giá 9.050 đồng/kg… Ông Nguyễn Đức Tấn, Giám đốc Nhà máy Phân bón Long Mỹ cho biết: Vừa qua nhà máy cũng đã nhập thêm phân NPK từ Phi-líp-pin và phân u-rê từ Nhà máy phân đạm Phú Mỹ nhằm bảo đảm đủ lượng phân bón cho dân...”.Trong khi phân bón tăng giá thì giá lúa lại khá thấp 5.200 – 5.700 đồng/kg. Bà con nông dân trong tỉnh đang tỏ ra lo lắng. Anh Nguyễn Xuân Thu ở thôn Phú Mỹ 2, xã Phước Lộc huyện Tuy Phước phân trần: Vụ Đông Xuân này gia đình tôi dự tính gieo cấy 2ha, nhưng với tình trạng giá phân bón tăng cao như hiện nay, có lẽ tôi phải cắt giảm một nửa diện tích”. Bà Trần Thị Bảy nông dân ở xã Phước An, tính: Như các năm trước, mỗi sào ruộng vụ Đông Xuân cho lãi khoảng 250 ngàn đồng. Bây giờ giá phân bón tăng cao thế này, e rằng phải chuyển đổi cây trồng khác, thay lúa...”. Nhiều nông dân cho hay, với giá phân bón như hiện nay, nông dân phải chi 2,5-3 triệu đồng tiền phân bón cho một héc-ta lúa hop quy, phan bon npk Đông Xuân. Như trước đây, chăm bón tốt thì bình quân một héc-ta thu hoạch được 6-6,5 tấn thóc, có lãi 3-3,5 triệu đồng. Nhưng bây giờ, vì giá phân bón tăng, giá nhân công cũng tăng, e rằng khó có thể lãi được 2 triệu đồng/ha/vụ. Thậm chí, nếu hộ nào thiếu lao động, phải thuê mướn nữa... Thì thua lỗ là chuyện có thể xảy ra.Bên cạnh nỗi lo giá tăng, thời gian gần đây, tình trạng kinh doanh, buôn bán phân bón giả, nhái nhãn hiệu… xuất hiện khá nhiều trên thị trường cũng là vấn đề đang làm bà con nông dân càng thêm lo lắng.Bài và ảnh: Đông Sơn. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK.
Trong đó, trọng điểm là các dự án như đầu tư nhà máy sản xuất phân bón NPK, nhà máy chế biến sản xuất gạo xuất khẩu, cụm nhà máy đường, ethanol, nhà máy điện... Tổng giá trị các hợp đồng được ký kết trên 400 triệu USD, góp phần đưa tổng vốn đăng ký đầu tư của VN vào Campuchia lên trên 600 triệu USD.Sẽ có một số công ty liên doanh, công ty cổ phần được thành lập, trong đó có Công ty CP Chế biến lương thực, thực phẩm Campuchia - Việt Nam trong đó có vốn góp của Tổng công ty Lương thực miền Nam - Vinafood2. Bên cạnh đó còn có những hợp đồng tài trợ vốn cho Công ty TNHH Viettel Campuchia, dự án đầu tư nhà máy sản xuất đường, ethanol, trồng 10.000ha rừng của Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai Manggiang K... Riêng tại An Giang, giá phân DAP bán lẻ đã giảm khoảng 79%, từ mức 18.795 đồng/kg năm 2008 xuống còn 10.500 đồng/kg trong 6 tháng đầu năm 2009. Giá phân u-rê cũng giảm 29%. DAP là loại phân có mức giá giảm mạnh nhất trong sáu tháng qua. Phân u-rê, hai tuần trở lại đây cũng bắt đầu có xu hướng giảm. Giá tại Trà Vinh là 6.800 đồng/kg, tại Cần Thơ là 6.200 đồng/kg... Giá phân SA cũng bắt đầu giảm mạnh tại thời điểm này ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Dự báo, trong thời gian tới, giá phân bón tiếp tục xu hướng giảm. Sức mua trên thị trường giảm sút. Nhiều nhà máy giảm sản lượng, trong khi các đại lý tiêu thụ chậm. Tại nhiều đại lý phân bón ở đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng ế ẩm kéo dài trong thời gian gần đây. Riêng phân NPK, lượng bán ra giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008. Nguyên nhân là rút kinh nghiệm sau cơn sốt phân bón năm 2008, làm nhiều nông dân lao đao, năm nay, nhiều nông dân mua phân bón dự trữ. Đến chính vụ hè thu, bà con không còn nhu cầu nữa. Còn những hộ nhỏ lẻ không có vốn, mua chịu lãi đến cuối vụ thì lại mua nhỏ giọt, nhu cầu đến đâu mua đến đó để rút ngắn thời gian chịu lãi. Nguyên nhân thứ hai là tại đồng bằng sông Cửu Long, nhiều địa phương chưa triển khai xuống giống vụ lúa mùa 2009. Theo Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang, vụ hè thu nông dân thường ít bón phân hơn vụ đông xuân, với lượng bón khoảng 250 đến 270kg/ha. Theo thường lệ, nông dân sẽ giảm phân đạm, tăng phân lân và ka-li để giúp lúa cứng cây, ít đổ ngã do vụ hè thu thường có mưa bão nhiều. Đối với nông dân áp dụng tốt quy trình 3 giảm 3 tăng thì số lượng phân bón sử dụng có thể ít hơn 30 đến 50 kg so với bình thường. Một lý do nữa dẫn đến giá phân bón giảm là nguồn cung phân bón trên thế giới cũng khá dồi dào. Giá phân bón trên thế giới thời điểm này đã giảm 10 đến 50 USD/kg, hiện ở mức 650 USD/tấn giá tại cảng Ấn Độ. Trong khi đó nhu cầu phân bón của hầu hết các nước cũng không tăng. Trong thời gian ngắn tới đây, cung và cầu phân bón trên thế giới vẫn chưa thể cân bằng được. Cũng theo tính toán của Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn, nhu cầu phân bón sáu tháng đầu năm khoảng bốn triệu tấn. Trong đó nhu cầu u-rê 900.000 tấn, SA là 400.000 tấn, ka-li là 320.000 tấn, DAP là 300.000 tấn, NPK là 1,5 triệu tấn. Nếu các nhà máy tiếp tục duy trì sản xuất như trong sáu tháng qua, thì sáu tháng cuối năm, nguồn cung sẽ vượt cầu. Nhu cầu nhập khẩu phân bón sẽ giảm. Cụ thể, u-rê chỉ cần 0,43 triệu tấn, DAP khoảng 100.000 tấn và NPK dự tính là 270.000 tấn. Nguồn phân bón sáu tháng cuối năm sẽ khá dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất của bà con. Đồng thời, giá phân bón trên thị trường trong thời gian tới vẫn được dự báo là sẽ ổn định ở mức thấp. Mặc dù vẫn có một số yếu tố tiềm ẩn đến tăng giá như giá dầu thô hồi phục.Theo tính toán, hệ số tăng giá giữa dầu thô và phân bón là 0,95%. Ngoài ra, nhiều nhà sản xuất phân bón trên thế giới dự định cắt giảm nguồn cung hay chính sách tăng thuế xuất nhập khẩu đối với một số loại phân bón... Thị trường phân bón Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Công nghiệp sản xuất phân bón nội địa mới chỉ đáp ứng được khoảng 50 đến 60% nhu cầu về u-rê, 100% nhu cầu phân lân nung chảy và NPK từ lân nung chảy. Các loại phân khác như SA, Kali... Hiện nay đang phải nhập khẩu 100%. Đặc biệt, thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, chiếm tới hơn 40% tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của Việt Nam. Do đó các chính sách điều tiết xuất nhập khẩu phân bón của Trung Quốc có tác động nhanh chóng và trực tiếp tới thị trường Việt Nam. Do không chủ động được nguồn cung nên chuyện thiếu, thừa thường xuyên xảy ra. Bên cạnh đó, việc điều tiết thị trường chưa được thực hiện tốt, các số liệu dự báo cung cầu còn có sự chênh lệch lớn. Chính vì vậy, để thị trường phân bón ổn định hơn, đòi hỏi có cơ quan điều tiết hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu và dự trữ phân bón trên bình diện tổng thể để cân đối cung cầu trong nước, tránh tình trạng các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu tự cân đối như hiện nay. Ánh Tuyết. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho lúa vụ xuân: Nông dân tăng lợi nhuận 240.000 đồng/sào Địa điểm trình diễn là các xã Thạch Sơn, Xuân Lũng và Tiên Kiên, huyện Lâm Thao. Công thức bón phân: Ruộng mô hình sử dụng phân NPK-S Lâm Thao có bổ sung bã gíp theo quy trình bón phân khép kín. Ruộng đối chứng được bón phân theo tập quán địa phương. Kết quả thực hiện mô hình cho thấy: Cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu bệnh hại, chỉ phải phun thuốc trừ sâu 1 lần, nhiều ruộng không phải phun thuốc, chiều cao cây lúa thấp hơn lúa ở ruộng đối chứng 10-12cm, cây cứng hơn, lá đòng đứng, thời gian sinh trưởng rút ngắn khoảng 8-10 ngày so với ruộng đối chứng. Năng suất ở ruộng lúa mô hình đạt 248kg/sào; ruộng đối chứng đạt 210kg/sào chênh lệch 38kg/sào. Trừ các chi phí, thu nhập ở ruộng mô hình đạt 578.000 đồng/sào; ở ruộng đối chứng đạt 338.000 đồng/sào hiệu quả kinh tế tăng 240.000 đồng/sào. Thăm quan ruộng lúa có sử dụng sản phẩm phân bón Hữu Nghị tại xã Thiệu Vận huyện Thiệu Hóa- Thanh Hóa Sản phẩm đã có mặt ở tất cả các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ với nhiều chủng loại NPK 20-20-15+TE, NPK 16-16-8+13S, NPK 15-5-16+TE, NPK 13-13-13+TE, NPK 13-7-5+TE... Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho tất cả các loại cây trồng theo từng giai đoạn bón lót, bón thúc.Bà Lê Thị Quyên - hop quy, phan bon npk thôn 4, xã Thiệu Vận Thiệu Hóa - Thanh Hóa cho biết: Cả hai vụ gần đây, tôi bón phân Hữu Nghị. Bằng kinh nghiệm trồng lúa lâu năm, tôi nhận thấy, khi bón phân Hữu Nghị cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, trổ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng loại phân này hạn chế được tối đa sâu, bệnh phá hoại. Đặc biệt năng suất lúa tăng rõ rệt, cao hơn so với ruộng không sử dụng phân bón Hữu Nghị 50kg/sào, hiệu quả cao hơn 342.500 đồng so với ruộng đối chứng”.Còn anh Thiều Quang Khuyên - thôn 9, xã Yên Phong Yên Định - Thanh Hóa nhận định: Vụ mùa năm ngoái, được sự khuyến cáo của UBND huyện, tôi và nhiều hộ trong thôn đã thay đổi cách sử dụng phân bón. Quá trình chăm sóc, theo dõi lúa sinh trưởng cho thửa ruộng có sử dụng và không sử dụng phân bón này, tôi thấy rằng, lúa có sử dụng phân Hữu Nghị thì cây cứng và tỷ lệ hạt chắc nhiều hơn nên năng suất cao hơn so với ruộng không dùng nó. Về mặt sản lượng thì cao hơn ruộng không sử dụng phân Hữu Nghị khoảng 35-40kg/sào. Cũng theo anh Khuyên: Thực tế theo hướng dẫn của Phòng NN- PTNT, chúng tôi bón đúng quy định như vậy thì thấy số lượng bón phân Hữu Nghị chỉ chưa đến ½ so với số lượng của một số loại phân NPK khác. Không chỉ có giảm chi phí chăm bón mà còn giảm được chi phí thuốc BVTV. Theo tính toán, sử dụng phân bón Hữu Nghị cho hiệu quả cao hơn một số loại phân bón thông thường khoảng 187.500đ/sào.Việc Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK chất lượng cao theo công nghệ hiện đại, tự động hóa hoàn toàn bằng phần mềm vi tính cho ra những sản phẩm phân bón hàm lượng dinh dưỡng đậm đặc, đồng đều, ổn định về chất lượng, viên phân sạch sẽ, chắc bóng, lượng bón ít làm giảm các chi phí chăm bón, vận chuyển, lưu thông, bảo vệ môi trường và sức khỏe người sử dụng sẽ góp phần mang lại hiệu quả thiết thực và giá trị cao cho nông dân.. Gần 15 năm chúng tôi đặt mối quan hệ làm ăn với Ngân hàng Công thương Phòng Giao dịch An Nhơn, chưa bao giờ chúng tôi có nợ xấu. Chúng tôi luôn trả nợ vay trước hạn chứ không bao giờ để quá hạn. Thế nhưng không hiểu sao, từ khi phòng giao dịch thay ngôi đổi chủ”, chúng tôi cũng bị thay đổi cách đối xử đột ngột đến như vậy”, ông La Văn Tám, Chủ nhiệm HTXNN phường Bình Định. LĐ - Theo quy định, phân bón kém chất lượng được trả cho nhà sản xuất để tái chế, nhưng lô hàng này không có tên và địa chỉ của nhà sản xuất. Đ.T.K. Đại diện lãnh đạo huyện Mỹ Lộc và Công ty Supe Lâm Thao tham quan mô hình bón phân NPK Lâm Thao khép kín cho cây ớt lai số 7 tại xã Mỹ Tiến. Mô hình bón phân NPK khép kín cho cây ớt lai số 7 được Hội Nông dân ND huyện Mỹ Lộc phối hợp Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Công ty Supe Lâm Thao và Công ty TNHH ớt Việt Nam Công ty ớt Việt Nam triển khai tại 3 xã Mỹ Tiến, Mỹ Hà, Mỹ Tân và thị trấn Mỹ Lộc. Nông dân hưởng lợi kép Đến cánh đồng của xã Mỹ Tiến vào thời điểm này, dù tiết trời nắng như đổ lửa, nhưng không khí làm việc của bà con ND nơi đây vẫn rất hăng say, khuôn mặt ai cũng toát lên phấn khởi. Hỏi ra mới biết, vụ xuân 2014 này ớt bà con trồng trúng mùa kép, ớt không những được mùa mà còn được giá. Đang thoăn thoắt hái ớt, thấy chúng tôi đến, lão nông Trần Văn Vọ thôn Lang Xá, xã Mỹ Tiến ngơi tay lau vội những giọt mồ hôi trên mặt, cười bảo: Thời tiết nóng quá, nhưng ớt năm nay trồng được mùa nên ND chúng tôi phấn khởi lắm, hái ớt không biết mệt. Ngày đầu được cán bộ Hội ND huyện Mỹ Lộc và Công ty Supe Lâm Thao xuống ruộng vận động, hướng dẫn trồng ớt lai số 7, tôi cũng phân vân lắm, vì đồng ruộng Mỹ Tiến từ xưa đến nay cấy lúa còn phải chăm sóc khổ cực huống chi là cây trồng mới. Nhưng khi bắt tay vào trồng ớt, đến giờ thu hoạch mới biết là trồng ớt không những dễ, nhàn hạ mà còn có thu nhập cao gấp nhiều lần trồng lúa” - ông Vọ cho biết thêm. Nhà trồng 1,5 mẫu ớt, ông Vọ cho hay, vào khoảng giữa tháng 5 vừa rồi, gia đình ông mới chỉ thu hái hợp quy, phân bón npk quả dưới chân cây lần 1 cũng đã được hơn 1,5 tấn, trung bình mỗi sào đạt hơn 1 tạ, với giá thu mua theo hợp đồng cố định của Công ty ớt Việt Nam là 5.000 đồng/kg, rất được giá so với thị trường hiện tại. Ớt đang cho thu hái lần 2, dự kiến năng suất sẽ đạt trên 2 tạ/sào. Hiện tại ớt đang cho hoa nhiều, nếu thời tiết thuận lợi, dự đoán từ nay đến hết tháng 6 năng suất sẽ còn tăng nữa” - ông Vọ phấn khởi khoe. Cũng đang bước vào vụ thu hoạch rộ ớt, ông Trần Văn Hanh ở xã Mỹ Phúc cho biết: Thời gian đầu trồng, gặp phải thời tiết xấu quá, tôi rất lo. Nhưng nhờ cán bộ Hội ND huyện và Công ty Supe Lâm Thao xuống tận ruộng hướng dẫn trồng, bón phân NPK khép kín… đến giờ thu hoạch thấy ớt được mùa lại được giá nên tôi phấn khởi lắm. Sẽ tiếp tục mở rộng diện tích Ông Lê Đình Bảng – Giám đốc Công ty ớt Việt Nam đơn vị ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm ớt cho người dân huyện Mỹ Lộc cho biết: Qua thu hoạch, đánh giá sản lượng và chất lượng ớt tại các xã của huyện Mỹ Lộc cho thấy đây là vùng đất phù hợp và rất tiềm năng để phát triển mô hình trồng ớt lai số 7 xuất khẩu. Bà con chỉ cần trồng đúng vụ và bón phân, chăm sóc đúng kỹ thuật mà phía Công ty Supe Lâm Thao hướng dẫn, thì bà con khỏi lo về năng suất cũng như đầu ra, công ty đảm bảo bà con trồng ra bao nhiêu chúng tôi cũng sẽ bao tiêu hết theo đúng giá đã cam kết trong hợp đồng, có thể giá sẽ lên nữa theo thị trường” - ông Bảng khẳng định. Ông Trần Văn Vọ ở thôn Lang Xá, xã Mỹ Tiến cho hay: Qua đối chiếu, so sánh với mô hình trồng ớt lai số 7 tại các xã ở huyện Ý Yên Nam Định mà chúng tôi đã đi tham quan thì chất lượng ớt của chúng tôi khi được bón phân NPK Lâm Thao vẫn vượt trội hơn về nhiều mặt như thân cứng, cây cao, lá xanh, nhiều hoa và quả to đều hơn… Đặc biệt, tính về chi phí đầu tư phân bón, trên mỗi sào chúng tôi tiết kiệm được hơn 100.000 đồng. Ông Trần Ngọc Hiển – Chủ tịch Hội ND huyện Mỹ Lộc cho hay: Do điều kiện thổ nhưỡng và địa hình đất đai khá phức tạp nên người dân các xã của Mỹ Lộc 1 năm chỉ cấy 2 vụ lúa, ngoài ra có trồng thêm cây rau màu nhưng thu nhập còn thấp. Thời gian tới, huyện đang tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân dồn điền, đổi thửa nhanh nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa cây trồng có năng suất và giá trị kinh tế cao vào sản xuất để nâng cao thu nhập cho người dân. Ông Hiển cho biết, qua triển khai mô hình bón phân NPK khép kín cho cây ớt lai số 7 xuất khẩu với diện tích hơn 10ha tại 4 xã và thị trấn, bước đầu cho thấy hiệu quả rất tốt. Người dân mới chỉ thu có 2 đợt đầu vụ mà năng suất đã vượt kế hoạch, đặc biệt là đầu ra ổn định nên người dân rất phấn khởi. Theo vụ, ớt sẽ cho thu hoạch đến hết tháng 6, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi, nếu thuận lợi và thành công, từ năm sau sẽ cho nhân rộng mô hình trên ra toàn huyện để nông dân sản xuất, làm giàu. Tổng GDP toàn tỉnh đạt 17.608 tỷ đồng, chỉ tăng 7,03% so với cùng kỳ và chưa đạt phân nửa so với nghị quyết tăng trưởng GDP 16,64% của cả năm 2009. Công nghiệp chiếm đến hơn 60% GDP, chỉ đạt 42,4% kế hoạch năm; một số sản phẩm chủ lực của tỉnh có giá trị kinh tế cao lại nằm trong nhóm giảm mạnh như: thép giảm 39,32%, phân NPK giảm 25,3%, thùng phuy giảm 46,96%; nhiều DN đang mất thị trường và chưa ký kết được đơn hàng cho năm 2009. Từ đầu năm 2009 đến nay, thống kê các DN trong các KCN cho thấy chưa có DN nào mở được thị trường mới. Một số DN Đài Loan đang phải xuất ngược về Đài Loan để cầm cự.Khó khăn của ngành công nghiệp tác động trực tiếp đến cán cân xuất nhập khẩu của tỉnh. Kim ngạch XK giảm 10,74% so với cùng kỳ. Đây là mức giảm đầu tiên trong nhiều năm trở lại đây. Kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh, giảm 43,11% so với cùng kỳ, phần lớn hàng nhập khẩu là nguyên liệu cho ngành công nghiệp. Nhập khẩu giảm trong thời điểm hiện tại dự báo trong một vài tháng tới, tình hình sản xuất cũng sụt giảm.
III. Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT
Trong tháng 8/2009, đã nhập khẩu 272 tấn phân Ure, với đơn giá 270 USD/tấn, từ thị trường Trung Quốc qua cửa khẩu Lao Cai Lao Cai, DAF, LC. Tháng 8/2009, đã nhập khẩu 1.300 tấn phân SA, với đơn giá 122 USD/tấn từ thị trường Nga, tại cửa khẩu Cảng Tân cảng Hồ Chí Minh, CFR, LC. Nhập khẩu phân DAP từ thị trường Mỹ trong tháng 8 là 17.265 tấn, với đơn giá 350 USD/tấn, tại Cảng Bến Nghé Hồ Chí Minh, CFR, LC. Sản lượng phân urê trong tháng 8/2009 tuy tăng 0,7% so với tháng 7 nhưng chỉ bằng 96,3% so với tháng 8/2008; tính chung 8 tháng sản lượng phân ure ước đạt 657,1 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; sản lượng phân lân ước đạt 977,1 nghìn tấn, giảm 7,9% so với cùng kỳ; phân NPK ước đạt 1.045,2 nghìn tấn, giảm 8,9% so với cùng kỳ. Trong tháng 8, đã nhập khẩu 180 tấn phân khoáng, đơn giá là 385 USD/tấn từ thị trường Trung Quốc, tại cửa khẩu CK đường sắt LVQT Đồng Đăng. Giá phân bón DAP-FOB Tampa trên thị trường thế giới tuần từ 10-14/8/2009 đạt 319,00 USD/tấn giảm 0,71% so với tuần từ 27-31/7/2009 với mức giá là 321,25 USD/tấn. Giá phân DAP trong tuần đến ngày 31/8/2009 trên thị trương thế giới tiếp tục tăng nhẹ so với tuần trước. DAP Tampa tăng 2 USD/tấn, lên 321 USD/tấn; DAP Nola tăng 3 USD/tấn, lên 282 USD/tấn; DAP Trung Floria ổn định ở mức 270 USD/tấn. Tại Châu Á, nhiều nguồn tin cho biết thương nhân Ấn Độ có thể sẽ tổ chức mời thầu mua Urea trong tháng 9/09. Để có được hợp đồng cung cấp Urea cho Ấn Độ, giá Urea Trung Đông có nhiều khả năng sẽ được điều chỉnh giảm trong tháng 9, do sự cạnh tranh quyết liệt từ sản phẩm Urea Yuzhnyy có giá rẻ hơn. Dứa là cây ăn quả nhiệt đới, còn được gọi là thơm, khóm thuộc họ Dứa Bromeliaceae có nguồn gốc Nam Mỹ Brazil, Achentina, Paragoay. Ở Việt Nam trồng các giống dứa như: Cayen Cayen Phú Hộ, Cayen Đức Trọng, Cayen Đà Lạt, Cayen Trung Quốc, Cayen Thái Lan, Cayen Long Định 2...; Queen dứa Hoa Phú Hộ, dứa Na Hoa, dứa Hoa Nam Bộ...; dứa Spanish dứa Tây Ban Nha, dứa Tây Ban Nha Đỏ, dứa Mật.... Yêu cầu về đất và dinh dưỡng Cây dứa có thể phát triển trong điều kiện nhiệt độ từ 15 0 C đến 40 0 C, thích hợp nhất từ 28 0 C đến 32 0 C; có phản ứng ngày ngắn nên mùa đông có thể ra hoa tự nhiên; cần nước nhưng không chịu úng; có thể trồng trên đất phù sa, đất xám bạc màu, đất phèn, đất đỏ feralit...; có thể phát triển trong điều kiện pH KCL từ dưới 4,0 đến 6,0 tùy theo giống dứa Queen pH KCL < 4,0;="" dứa="" spanish="" ph="" kcl="" 4,5="" -="" 5,0;="" dứa="" cayen="" ph="" kcl="" 5,6="" -="" 6,0;="" cần="" thiết="" các="" yếu="" tố="" dinh="" dưỡng="" đa,="" trung,="" vi="" lượng="" nhưng="" đặc="" biệt="" chú="" ý="" yếu="" tố="" magiê.="" để="" tạo="" nên="" một="" tấn="" dứa="" quả,="" cây="" dứa="" lấy="" đi="" từ="" đất:="" 3,8="" -="" 5,0="" kg="" n;="" 0,9="" -="" 1,6="" kg="" p="" 2="" o="" 5="" ;="" 6,0="" -="" 7,1="" kg="" k="" 2="" o;="" 1,0="" -="" 1,5="" kg="" cao;="" 0,3="" -="" 0,5="" kg="" mgo.="" thời="" vụ="" và="" kỹ="" thuật="" trồng="" ở="" các="" tỉnh="" miền="" bắc:="" vụ="" xuân="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 3="" -="" 4;="" vụ="" thu="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 8="" -="" 9.="" ở="" các="" tỉnh="" bắc="" trung="" bộ="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 6="" -="" 7;="" nam="" trung="" bộ="" trồng="" vào="" các="" tháng="" 9="" -="" 10.="" ở="" các="" tỉnh="" đồng="" bằng="" sông="" cửu="" long,="" đông="" nam="" bộ="" có="" thể="" trồng="" quanh="" năm="" nhưng="" tốt="" nhất="" là="" vào="" đầu="" và="" cuối="" mùa="" mưa.="" dứa="" được="" trồng="" theo="" hàng="" kép="" đôi,="" mật="" độ="" 50="" -="" 60="" ngàn="" chồi.="" cây="" dứa="" ra="" hoa="" sau="" trồng="" 16="" -18="" tháng="" tùy="" theo="" giống="" và="" vụ="" trồng.="" sử="" dụng="" phân="" bón="" lâm="" thao="" npk-s="" cho="" cây="" dứa="" bón="" lót="" theo="" hốc="" hoặc="" theo="" hàng,="" rạch="" trước="" khi="" trồng="" 3="" -="" 4="" ngày.="" bón="" thúc="" 3="" lần:="" sau="" trồng="" 2="" -="" 3="" tháng;="" sau="" trồng="" 5="" -="" 6="" tháng;="" trước="" xử="" lý="" ra="" hoa="" 2="" tháng.="" khi="" dứa="" đã="" có="" quả="" không="" bón="" thúc="" đạm.="" lượng="" phân="" bón="" cho="" cây="" dứa,="" tính="" trên="" 1="" ha="" kg/10.000="" m="" 2="" thời="" kỳ="" bón="" loại="" phân="" bón="" lót="" hoặc="" bón="" sau="" thu="" hoạch="" bón="" thúc="" sau="" trồng="" 2-3="" tháng="" bón="" thúc="" sau="" trồng="" 5-6="" tháng="" bón="" thúc="" trước="" ra="" hoa="" 2="" tháng="" phân="" chuồng="" hoai="" 5.000="" ÷="" 10.000="" npk-s="" 5.10.3-8="" 585="" ÷="" 695="" npk-s="" 12.5.10-14="" hoặc="" 10.5.10-5="" 585="" ÷="" 695="" 585="" ÷="" 695="" 585="" ÷="" 695="" lượng="" phân="" bón="" cho="" dứa,="" tính="" cho="" 1="" sào="" bắc="" bộ="" kg/360="" m="" 2="" phân="" chuồng="" hoai="" 200="" ÷="" 400="" npk-s="" 5.10.3-8="" 20="" ÷="" 25="" npk-s="" 12.5.10-14="" hoặc="" 10.5.10-5="" 20="" ÷="" 25="" 20="" ÷="" 25="" 20="" ÷="" 25="" công="" ty="" cổ="" phần="" supe="" phốt="" phát="" &="" hóa="" chất="" lâm="" thao="" chúc="" bà="" con="" nông="" dân="" trồng="" dứa="" thơm,="" khóm="" sử="" dụng="" phân="" bón="" lâm="" thao="" đúng="" quy="" trình="" kỹ="" thuật="" để="" mang="" lại="" năng="" suất,="" chất="" lượng="" và="" hiệu="" quả="" kinh="" tế="" cao.="" ông="" nguyễn="" đình="" hạc="" thúy,="" phó="" chủ="" tịch="" kiêm="" tổng="" thư="" ký="" trung="" ương="" hiệp="" hội="" phân="" bón="" việt="" nam="" cho="" biết="" hơn="" 30="" năm="" qua="" chưa="" bao="" giờ="" diễn="" biến="" giá="" cả="" phân="" bón="" trên="" thị="" trường="" thế="" giới="" thay="" đổi="" nhanh="" chóng="" như="" từ="" cuối="" năm="" 2006="" đến="" nay.="" các="" loại="" phân="" bón="" đồng="" loạt="" tăng="" giá="" và="" tăng="" cao="" kỷ="" lục,="" không="" riêng="" gì="" urê="" mà="" cả="" dap,="" sa...="" đều="" tăng="" giá.="" riêng="" urê="" tăng="" 94="" -="" 112="" usd/tấn,="" dap="" tăng="" 178="" -="" 200="" usd/tấn.="" hiện="" giá="" phân="" bón="" trên="" thị="" trường="" thế="" giới="" vẫn="" đang="" tăng="" do="" nhu="" cầu="" tăng="" mạnh="" và="" sản="" xuất="" trong="" nước="" gặp="" khó="" khăn="" đang="" tạo="" ra="" diễn="" biến="" phức="" tạp="" cho="" thị="" trường="" phân="" bón="" trong="" nước.sản="" xuất="" trong="" nước="" thêm="" nhiều="" khó="" khănhiện="" nay,="" sản="" xuất="" phân="" bón="" trong="" nước="" đáp="" ứng="" được="" 65%="" nhu="" cầu="" nhưng="" đang="" gặp="" nhiều="" khó="" khăn.="" tổng="" công="" ty="" hóa="" chất="" việt="" nam="" cho="" biết,="" do="" mức="" tiêu="" thụ="" cao="" hơn="" mức="" sản="" xuất="" nên="" hầu="" hết="" các="" loại="" phân="" bón="" đều="" tiêu="" thụ="" hết="" lượng="" tồn="" kho="" luân="" chuyển="" từ="" năm="" trước="" và="" hiện="" lượng="" tồn="" kho="" còn="" lại="" rất="" thấp.="" cụ="" thể:="" 9="" tháng="" đầu="" năm="" 2007,="" toàn="" tổng="" công="" ty="" đã="" tiêu="" thụ="" trên="" 2,4="" triệu="" tấn="" phân="" bón="" các="" loại,="" tăng="" 21,8%="" so="" với="" cùng="" kỳ="" năm="" trước,="" trong="" khi="" lượng="" sản="" xuất="" chỉ="" đạt="" 2,5="" triệu="" tấn,="" tăng="" 13,5%="" so="" với="" cùng="" kỳ="" năm="" 2006.="" lượng="" phân="" bón="" tồn="" kho="" vào="" thời="" điểm="" 30/8/2007="" chỉ="" bằng="" 38,5%="" so="" với="" cùng="" kỳ.trong="" khi="" đó="" sản="" xuất="" của="" nhiều="" doanh="" nghiệp="" đã="" tới="" hạn.="" chẳng="" hạn="" công="" ty="" phân="" đạm="" và="" hóa="" chất="" hà="" bắc,="" không="" còn="" khả="" năng="" tăng="" năng="" lực="" sản="" xuất="" và="" có="" những="" doanh="" nghiệp="" đang="" nợ="" sản="" phẩm="" đối="" với="" khách="" hàng="" như="" công="" ty="" phân="" lân="" nung="" chảy="" văn="" điển="" hiện="" còn="" phải="" nợ="" khách="" hàng="" 30="" tỷ="" đồng="" tiền="" hàng="" mà="" chưa="" có="" phân="" bón="" giao.="" trong="" khi="" đó="" một="" số="" nguyên="" liệu="" trong="" nước="" như="" quặng="" apatit="" ngoài="" việc="" tăng="" giá="" thì="" cung="" ứng="" cũng="" rất="" khó="" khăn="" do="" hạn="" chế="" về="" vận="" tải="" đường="" sắt="" và="" đường="" biển.="" công="" ty="" supephotphat="" và="" hóa="" chất="" lâm="" thao="" cho="" biết="" đang="" gặp="" khó="" khăn="" vì="" thiếu="" quặng="" apatit.="" bình="" quân="" 1="" ngày="" dây="" chuyền="" sản="" xuất="" supe="" photphat="" cần="" 50="" toa="" quặng="" apatit.="" song="" thực="" tế="" hiện="" nay="" ngành="" đường="" sắt="" chỉ="" cấp="" được="" 60%="" yêu="" cầu="" và="" sản="" xuất="" supephotphat="" tại="" công="" ty="" đang="" đứng="" trước="" nguy="" cơ="" thiếu="" quặng="" vì="" lượng="" quặng="" apatit="" tồn="" kho="" chỉ="" đủ="" bổ="" sung="" cho="" 10="" ngày="" sản="" xuất.="" công="" ty="" phân="" bón="" miền="" nam="" cũng="" trong="" tình="" trạng="" tương="" tự,="" thiếu="" quặng="" apatit="" cho="" sản="" xuất="" supe="" photphat="" do="" ách="" tắc="" về="" vận="" tải="" cả="" đường="" sắt="" và="" đường="" thủy.="" ngoài="" ra="" ngành="" phân="" bón="" cũng="" chịu="" nhiều="" tác="" động="" do="" phải="" ngừng="" máy="" để="" di="" dời:="" công="" ty="" supephotphat="" và="" hóa="" chất="" lâm="" thao="" phải="" ngừng="" 2="" dây="" chuyền="" sản="" xuất="" axit="" sunfuric,="" mỗi="" dây="" chuyền="" ngừng="" 1="" tháng,="" để="" cải="" tạo="" công="" nghệ;="" công="" ty="" phân="" bón="" miền="" nam,="" phân="" bón="" bình="" điền="" cũng="" phải="" di="" dời="" sang="" địa="" điểm="" mới="" nên="" cũng="" ảnh="" hưởng="" rất="" nhiều="" đến="" sản="" xuất.thị="" trường="" phân="" bón="" bị="" thả="" nổitheo="" ông="" thúy,="" thị="" trường="" phân="" bón="" đang="" bị="" thả="" nổi,="" cuộc="" chơi="" này="" hoàn="" toàn="" do="" các="" doanh="" nghiệp="" điều="" tiết.="" giá="" phân="" bón="" sản="" xuất="" trong="" nước="" luôn="" thấp="" hơn="" giá="" thế="" giới,="" có="" những="" thời="" điểm="" giá="" urê="" thị="" trường="" trong="" nước="" rẻ="" hơn="" thế="" giới="" rất="" nhiều,="" tuy="" nhiên,="" tại="" các="" đại="" lý="" phân="" phối,="" mỗi="" khi="" giá="" thế="" giới="" có="">hop quy, phan bon npk dấu hiệu nhích lên là lập tức giá trong nước cũng sẽ điều chỉnh tăng theo. Việc đẩy giá lên diễn ra nhiều nhất ở cấp đại lý nhỏ lẻ do không có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan chức năng. Cùng với việc găm hàng đầu cơ đã làm cho giá phân bón tại nhiều địa phương tăng cao.Không những vậy mà trên thị trường còn xuất hiện nhiều phân bón giả, kém chất lượng. Chẳng hạn hiện có hàng loạt xí nghiệp sản xuất phân bón NPK mọc lên như nấm khắp cả nước, trong đó có nhiều cơ sở sản xuất phân bón NPK với công nghệ chủ yếu là cuốc, xẻng, xô... Và một đến hai mâm xoay và vo viên.NPK là phân bón tổng hợp có thể dùng thay thế một số loại phân khác. Khi giá phân bón tăng cao, xu hướng sử dụng phân NPK tăng mạnh và nhiều cơ sở đã cho ra đời phân bón kém chất lượng. Chẳng hạn mới đây tại Nghệ An khi các cơ quan chức năng kiểm tra 1 số cơ sở sản xuất phân NPK đã phát hiện có cơ sở hàm lượng N, P, K chỉ đạt 42% so với công bố được in ngoài nhãn mác bao bì, chất lượng giảm 58%. Đạm Phú Mỹ cũng là sản phẩm bị làm giả nhiều. Cơ quan chức năng đã từng phát hiện tại Bình Dương vụ làm giả đạm Phú Mỹ quy mô lớn bằng muối, cát tường và bột đá. Điều này gây thiệt hại cho bà con nông dân, đồng thời gây tổn thất lớn với thương hiệu Đạm Phú Mỹ bởi hỗn hợp muối, cát trắng và bột đá khi bón cho lúa sẽ làm cho lúa bị nghẹn đòng.Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, vào vụ Đông Xuân sắp tới, mức tiêu thụ các loại phân bón sẽ tăng mạnh, thị trường và giá cả các loại phân bón còn diễn biến phức tạp, vì vậy các cơ quan chức năng cần nhanh chóng đề ra các giải pháp hữu hiệu để kiểm soát chặt chẽ thị trường phân bón.Vietnamnet. Trung tâm thông tin Phát triển nông nghiệp Nông thôn Agroinfo dự báo nửa cuối năm 2009, lượng cung phân bón nội địa khá dồi dào, cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Tại hội thảo Triển vọng thị trường phân bón tại Việt Nam” diễn ra tại Hà Nội ngày 15/7, Agroinfo cho biết trong sáu tháng đầu năm, do vẫn còn tồn kho khoảng hơn 44.000 tấn phân bón các loại nên nhập khẩu phân bón giảm đáng kể, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc chiếm hơn 40% tổng sản lượng phân bón nhập khẩu của Việt Nam giảm từ 58% xuống còn 30%. Hiện sản xuất trong nước đáp ứng được khoảng 50 - 60% nhu cầu về phân urê; 100% nhu cầu phân lân nung chảy. Việt Nam có thể chủ động hoàn toàn nguồn cung đối với phân lân nội địa, chưa kể còn xuất khẩu sang một số thị trường như Nhật Bản, Australia, Malaysia. Tại hội thảo, các chuyên gia cũng khẳng định giá phân bón tương đối ổn định, khó có khả năng tăng cao trong những tháng cuối năm. Mặc dù, đây là thời điểm chính vụ hè thu tại Đồng bằng sông Cửu Long, song giá bán lẻ phân bón trên cả nước có xu hướng giảm nhẹ. Các nhà máy giảm thị phần do sức mua trong dân giảm, nhất là lượng bán ra đối với phân NPK giảm 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Bà Trương Hồng Kim, cán bộ phân tích thị trường của Ipsard, cho rằng điều này cũng dễ lý giải, bởi phần đông nông dân đã mua phân bón dự trữ từ trước đó để tránh bị ảnh hưởng của biến động giá. Ngoài ra, do đặc điểm mùa vụ nên nhu cầu sử dụng phân bón cho vụ hè thu không cao như các vụ khác. Đại diện của Công ty Phân bón Việt Nhật cũng cho rằng giá phân bón khó có thể tăng ở thị trường Việt Nam do giá nông sản vừa qua xuống thấp, người dân sẽ cân nhắc và cầm chừng khi sử dụng phân bón. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam hiện có khoảng 300 cơ sở sản xuất phân bón; 35 nhà nhập khẩu và 20 văn phòng đại diện phân bón nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến hết quý II/2009, Việt Nam đã nhập khẩu 2,1 triệu tấn phân bón, trị giá khoảng 665 triệu USD, giảm 6,6% về lượng và giảm gần 60% về giá do giá phân nhập khẩu ở mức thấp./. TTXVN/Vietnam+ .. Các ông Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình; Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp VN, đại diện Cục Trồng trọt Bộ NN-PTNT; Hội Nông dân VN, Chủ tịch Hội đồng thành viên, TGĐ Tập đoàn Công nghiệp hóa chất VN; các nhà khoa học trong Hội đồng cố vấn khoa học Cty Bình Điền cùng 130 đại lý, bạn hàng tại các tỉnh thành phía Bắc, đã đến dự, chung vui với Bình Điền. Thiên thời, địa lợi… Cả ông Đinh Văn Điến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình và ông Bùi Văn Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình đều khẳng định Bình Điền có duyên cơ với tỉnh nhà. Khi uy tín của phân bón Đầu Trâu ngày càng được củng cố và phát triển tại miền Bắc thì lãnh đạo tỉnh và Bình Điền xác định và xúc tiến khẩn trương công tác chuẩn bị xây dựng NM SX phân bón hỗn hợp NPK tại đây. NM sẽ góp phần làm tăng nhanh năng lực SX công nghiệp của tỉnh, giải quyết việc làm ổn định cho 300 lao động địa phương, tăng nguồn thu ngân sách cho… và quan trọng nhất là giúp nông dân không chỉ của tỉnh, mà cả miền Bắc được hưởng lợi khi sử dụng phân bón Đầu Trâu bởi giá cả hợp lý. Ông Nguyễn Đình Khang, TGĐ Tập đoàn Công nghiệp hóa chất VN, cho biết đến năm 2015, cả nước sẽ SX được 3 triệu tấn phân bón hỗn hợp NPK, trong đó riêng Bình Điền đạt 1,5 triệu tấn; nâng tổng số phân bón SX trong nước lên 8 triệu tấn; đủ bảo đảm an ninh phân bón cho SXNN trong mọi tình huống. Hơn thế nữa việc đặt NM SX tại Ninh Bình, Bình Điền sử dụng ngay nguồn đạm từ NM đạm Ninh Bình, nhất là đang ở dạng lỏng; sử dụng được nguồn điện từ nhà máy đạm Ninh Bình, nguồn nước sạch, nguồn hơi do quá trình SX đạm tạo ra; NM nằm cặp cảng sông Đáy, tàu bè trọng tải 200 tấn ra vào dễ dàng, rất tiện cho nguồn nguyên liệu từ cảng Hải Phòng về theo đường thủy… Tất cả sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm. Sự chín muồi sau 10 năm Bắc tiến” Ông Lê Xuân Phương, GĐ Cty Thái Sơn, nhà phân phối độc quyền phân bón Đầu trâu tại các tỉnh miền Bắc, nhớ lại những ngày cách nay 10 năm, ông cùng cán bộ của Bình Điền phải lặn lội xuôi tàu Bắc Nam, mang đến nông dân từng bao phân bón NPK trong cái giá lạnh cắt da của mùa đông. Xuống Thái Bình, nông dân không mua bởi họ không quen dùng phân hỗn hợp. Thế là phải tổ chức các điểm SX trình diễn. Phải cam kết với nông dân sẽ không lấy tiền nếu khi thu hoạch mà năng suất lúa không cao hơn cách bón phân theo thói quen truyền thống của nông dân… Với biết bao gian nan, vất vả, Bình Điền đã lấy được niềm tin của nông dân vào phân bón Đầu Trâu. Có đại lý vì thương, vì quý ông Phong Đầu trâu TGĐ Bình Điền, Lê Quốc Phong- PV mà chịu lỗ, chịu ế những năm đầu, dần dần rồi mới bán được hàng, mở rộng kinh doanh. Cho đến những năm gần đây, khi đã được nông dân ở hầu khắp các tỉnh thành phía Bắc tín nhiệm, sản lượng cung ứng lên đến trên 100.000 tấn/năm thì nhu cầu đòi hỏi có một NM SX ngay tại đồng bằng Bắc bộ ngày càng mãnh liệt. Niềm mong, nỗi chờ đang sắp thành sự thật khi những nhát cuốc của các nhà lãnh đạo bổ xuống khu đất rộng hơn 6 ha trong KCN Khánh Phú. Theo PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, GĐ Viện Khoa học nông nghiệp VN cho biết: Nông dân miền Bắc trước đây chủ yếu SX nhỏ, sử dụng phân đơn và phân NPK hàm lượng thấp mà họ quen gọi là phân cứt chuột. Việc Bình Điền đầu tư một NM SX phân bón Đầu Trâu tại đây chứng tỏ nông dân phía Bắc đã có sự thay đổi tư duy SX, tức họ đã sử dụng phân bón NPK hàm lượng cao thay cho phân bón NPK hàm lượng thấp và tập quán sử dụng phân đơn. Bình Điền có công làm ra sự thay đổi này”. Nông dân được hưởng lợi Ông Lê Quốc Phong, Chủ tịch HĐQT, TGĐ Cty CP Phân bón Bình Điền vui mừng cho biết: 10 năm lăn lộn với nông dân miền Bắc, lúc nào trong tôi cũng đau đáu quyết tâm phải có một NM SX, đặt tại trung tâm đồng bằng Bắc bộ, để đưa đến bà con nông dân những sản phẩm phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao, phù hợp với từng loại đất, từng mùa vụ, từng loại và từng thời kỳ sinh trưởng của cây trồng, nhưng phải với giá cả hợp lý nhất, giúp bà con thu được lợi nhuận cao nhất từ SX. NM Bình Điền - Ninh Bình khi hoàn thành sẽ có công suất 400.000 tấn/năm, sản phẩm phân bón NPK 1 hạt trên dây chuyền ure hóa lỏng, là công nghệ SX phân bón NPK hiện đại bậc nhất, không chỉ ở VN, mà trên cả thế giới hiện nay, với giá thành giảm từ 600.000 - 700.000 đ/tấn so với việc phải vận chuyển từ trong Nam ra. Cái này nhất định bà con nông dân sẽ được hưởng”. Ông Trần Văn Hân, chủ một đại lý phân bón Đầu Trâu tại huyện Hải Hậu, đồng thời là hội trưởng Hội Phân bón Bình Điền tỉnh Nam Định không giấu được sự phấn khởi. Ông nói: NM Bình Điền - Ninh Bình đi vào SX sẽ giúp chúng tôi luôn chủ động được nguồn hàng, nhất là trong những lúc thời vụ bức bách”. Khi mà đầu tư cho phân bón luôn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 40% tổng chi phí SXNN thì nông dân miền Bắc là những người đang chờ đợi nhiều nhất vào kết quả của sự kiện quan trọng này. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi diễn biến thị trường phân bón trong và ngoài nước, chỉ đạo, đôn đốc các doanh nghiệp nhập khẩu đủ phân bón phục vụ kịp thời sản xuất nông nghiệp, nhất là vụ Đông Xuân 2010-2011. Đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất Việt Nam đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo nguồn phân bón phục vụ sản xuất, nhất là vụ Đông Xuân 2010-2011. Duy trì lượng tồn kho phân đạm Phú Mỹ ở mức tối thiểu 70.000 tấn urê Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo hướng dẫn, khuyến cáo nông dân sử dụng hợp lý các loại phân bón tổng hợp, phân bón NPK, phân bón vi sinh, phân bón hữu cơ; đẩy mạnh phong trào 3 tăng, 3 giảm 3 giảm: giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; 3 tăng: tăng năng suất, tăng chất lượng và tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp để sử dụng tiết kiệm phân bón, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chỉ đạo việc duy trì lượng tồn kho phân đạm Phú Mỹ ở mức tối thiểu khoảng 70 ngàn tấn Urê, nhằm can thiệp kịp thời thị trường khi có biến động; đồng thời tham gia nhập khẩu phân bón để điều hòa giá cả phân đạm trong nước.UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các Bộ, ngành tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên địa bàn về chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng; phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi buôn bán phân bón giả, phân bón kém chất lượng, đầu cơ bán phá giá thị trường.Nam Anh. NPK 3 màu là loại phân bón hỗn hợp mà trong đó các hạt nguyên liệu phân đơn được phối trộn lại với nhau; mỗi hạt chỉ chứa 1 hoặc 2 nguyên tố đa lượng cần thiết cho cây trồng. Ví dụ urê hạt đục có màu trắng đục chỉ đại diện cho thành phần đạm Nitrogen N tổng số 46%, kali hạt có màu đỏ sẫm đại diện cho thành phần kali tổng số K 2 O 60%, hạt DAP có màu đen hoặc xanh, hoặc nâu... Đại diện cho thành phần đạm N 18% và lân P 2 O 5 46%... Ngoài ra còn 1 số hạt khác có hoặc không có thành phần đạm, lân, kali khác nhau nhà SX trong nước gọi là hạt bán thành phẩm. Tùy thuộc vào chỉ tiêu công bố hàm lượng N-P-K trên bao bì, nhà SX phối trộn các hạt trên theo các công thức hợp lý để tạo nên sản phẩm. Điều chú ý ở đây là tỷ trọng các hạt phân đơn trên có khác nhau tỷ trọng là tỷ số trọng lượng của 1 khối vật chất chia cho trọng lượng của 1 khối nước cùng thể tích. Ví dụ hạt đạm urê đục là 0,7 700 kg/m 3 , kali hạt là 1 1 tấn/m 3 , DAP hạt xanh 0,9 900 kg/m 3 … Các hạt có trọng lượng khác nhau tuy được phối trộn đều trước khi đóng bao thành phẩm phân bón NPK hỗn hợp 3 màu, nhưng trong quá trình nhập kho, vận chuyển từ nhà SX qua khâu phân phối các đại lý cấp 1, 2 đến người nông dân sẽ có sự phân lớp trọng lực nhất định bởi sự khác nhau trên. Hạt nhẹ, cỡ hạt to sẽ trồi trên miệng bao; hạt nặng, cỡ hạt nhỏ sẽ dồn xuống đáy bao. Vì vậy các thành phần đạm, lân, kali trong từng vị trí của bao phân có sự thay đổi so với hàm lượng công bố bên ngoài bao phân. Khi sử dụng nông dân cố gắng mua nguyên bao, trộn đều bằng tay trước khi dùng, hạn chế việc mua phân lẻ dễ rơi vào tình trạng sai lệch hàm lượng thường trên miệng bao phân bố nhiều hạt urê đục do nhẹ hơn các hạt khác. Nếu bón đòng cho lúa ta cần loại phân nhiều kali nhưng kali vốn nặng hơn nên thường dồn dưới đáy bao. NPK 1 hạt là loại phân phức hợp phân phức hợp chứa từ 2 hay nhiều nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. Trong mỗi viên phân đều chứa đủ các thành phần đa lượng NPK theo bao bì công bố. Nhà SX có nhiều phương pháp để cấu thành dạng phân này. Khi đó các thành phần nguyên tố dinh dưỡng NPK được trộn đều, hóa lỏng hay hóa hợp để qua công nghệ SX khác tạo hạt lại thành những viên phân đồng nhất, tỷ lệ hàm lượng NPK của các viên phân đều bằng nhau, do vậy không xảy ra tình trạng phân lớp trong bao bì. Như vậy phân bón NPK phức hợp 1 hạt giải quyết được sự thay đổi tỷ lệ hàm lượng so với phân hỗn hợp 3 màu. Sử dụng phân bón NPK phức hợp 1 hạt giúp cho rễ cây hút đồng đều các yếu tố dinh dưỡng, không gây ra hợp quy, phân bón npk sự mất cân đối cục bộ hoặc thiếu hụt nhất thời Hiện nay, Công ty Cổ phần Phân bón & dịch vụ tổng hợp Bình Định Biffa - Địa chỉ: Quốc lộ 1A, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã đầu tư thiết bị công nghệ SX phân bón NPK 1 hạt bằng công nghệ tạo hạt hơi nước, công suất 50.000 tấn/năm. Bón phân cân đối là một giải pháp dinh dưỡng giúp cây trồng phát triển ổn định, sinh trưởng khỏe, không những giữ vững năng suất mà còn hạn chế được bệnh hại cây trồng, tiết kiệm chi phí SX và nâng cao hiệu quả cho người nông dân. Báo NNVN ra ngày 27/9/2013 có bài viết Phải vạch mặt chỉ tên” phỏng vấn ông Nguyễn Hạc Thúy - Tổng Thư ký Trung ương Hiệp hội Phân bón Việt Nam. Quá trình trao đổi, ông Thúy có nêu ra một số DN phân bón vi phạm từ năm 2010 đến nay, trong đó có Cty Hưng Thịnh. Sau khi báo đăng, Báo NNVN nhận được đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nghiệp - Giám đốc Cty TNHH XNK Hưng Thịnh, cho rằng, lời phát biểu của ông Thúy không chính xác với sản phẩm NPK 16-16-8-13 của Cty. Sau khi nhận được khiếu nại, chúng tôi trao đổi lại với ông Nguyễn Hạc Thúy và được ông xác nhận là có sai sót. Cụ thể, năm 2010 Cty Hưng Thịnh chỉ bị UBND TP Hồ Chí Minh xử phạt về việc sai địa chỉ chứ chưa bao giờ bị xử phạt về việc phân NPK không đảm bảo chất lượng. Từ năm 2010 đến nay Cty Hưng Thịnh đã đầu tư gần 200 tỉ đồng xây dựng nhà máy SX phân NPK một hạt trên tổng diện tích trên 50.000 m2 tại ấp 3, xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An với công suất hàng năm trên 100.000 tấn phân bón các loại, được XK đi nhiều nước trên thế giới.
Phân bón khép kín NPK-S Lâm Thao cho lúa vụ xuân năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt Mô hình triển khai tại 2 điểm thuộc 2 huyện, gồm: Thôn Lam Điền xã Đông Động, huyện Đông Hưng 2 mô hình; xã Quang Bình, huyện Kiến Xương 1 mô hình. Mỗi mô hình 3ha, tổng diện tích thực hiện là 9ha. Quy trình bón phân được thục hiện theo quy trình bón phân khép kín của công ty: Bón lót: NPK-S5.10.3-8: 25kg/sào; bón thúc đẻ nhánh: NPK-S12.5.10-14: 9kg/sào; bón đón đòng: NPK-S12.5.10-14: 8kg/sào. Đối chứng theo tập quán bón phân thông thường ở địa phương. Trong suốt quá trình thực hiện mô hình, các cán bộ kỹ thuật của công ty kết hợp với Hội Nông dân tỉnh tổ chỉ đạo, theo dõi, đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, hướng dẫn bà con nông dân bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật. Ngày 11.6, Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tổ chức tổng kết mô hình tại xã Đông Động. Qua thực hiện mô hình trình diễn tại thôn Lam Điền đã đạt được kết quả cao, thể hiện: Ở giai đoạn mạ: Các giống trong mô hình và ngoài mô hình đều giống nhau, mạ khỏe, sức sinh trưởng tốt. Giai đoạn lúa cấy: Các giống lúa ở mô hình đẻ nhánh sớm, tập trung, lá xanh đẹp, lúa trỗ nhanh, gọn; các giống đối chứng đẻ nhánh không tập trung, lá xanh đậm hơn, thời gian lúa trỗ dài hơn, nhiều bông hơn nhưng tỷ lệ bông có số hạt dưới 100 hạt nhiều hơn, tỷ lệ lép cao hơn, số hạt chắc ít hơn. Mức độ sâu bệnh đều nhiễm nhẹ hơn so với đối chứng, đặc biệt là rầy nâu. Theo dõi trên giống lúa tại thôn Lam Điền cho thấy, trên nền phân bón NPK-S chuyên dụng của Lâm Thao, cây lúa phát triển cân đối, cứng, bộ lá khỏe, lúa đẻ tập trung hơn và tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao hơn so với ruộng đối chứng. Số dảnh đẻ tối đa đếm được số bình quân tương đương ở cả nền dùng phân chuyên dụng và đối chứng, nhưng tỷ lệ hữu hiệu ở nền phân chuyên dùng NPK-S Lâm Thao cao hơn so với đối chứng. Cụ thể năng suất lúa giống BC15 tại thôn Lam Điền là 260 kg/sào, giống Q5 là 270kg/sào vùng đối chứng giống BC15 năng suất là 230kg/sào, giống Q5 năng suất là 240kg/sào. Trên nền phân bón NPK-S Lâm Thao cây lúa có sức chống chịu sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng khá hơn, đặc biệt là bệnh đạo ôn và rầy. Kết quả cho thấy: Mô hình sử dụng phân bón NPK-S chuyên dụng Lâm Thao đều có các chỉ tiêu yếu tố cấu thành năng suất và năng suất tăng so với các ruộng sử dụng phân đơn. Mức tăng năng suất thực thu cuối cùng của mô hình bón phân NPK-S chuyên dụng so với phân đơn là 30kg lúa. Thỏa thuận hợp tác đầu tư được ký giữa Ngân hàng Đầu tư - phát triển Việt Nam, Ngân hàng đầu tư - phát triển Campuchia, các doanh nghiệp Việt Nam và Campuchia, trong đó trọng điểm là các dự án: nhà máy sản xuất phân bón NPK, nhà máy chế biến gạo xuất khẩu, cụm nhà máy đường, ethanol, nhà máy điện... Tổng trị giá các hợp đồng được ký kết trên 400 triệu USD, đưa tổng số vốn đăng ký đầu tư của Việt Nam vào Campuchia lên trên 600 triệu USD.V.H. Sản xuất phân bón bình ổn giá thị trường tại Công ty Phú Mỹ. Ảnh: CAO THĂNG/SGGP. + Bón lót: Bằng phân ĐYT NPK 6.11.2 chuyên dùng bón lót cho lúa dạng trộn trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=6%, P2O5=11%, K2O=2%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=10%, CaO=20%, SiO2=15% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%. + Bón thúc: Bằng phân ĐYT NPK 16.5.17 chuyên dùng bón thúc cho lúa dạng trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=16%, P2O5=5%, K2O=17%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=5%, CaO=8%, SiO2=7% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.- Mức bón kg/sào 360 m2:1. Đối Hợp quy, phân bón npk với lúa xuân :- Cách bón:1. Bón lót:- Đối với lúa cấy : Bón lúc bừa hoặc trước khi bừa lần cuối, cùng với phân chuồng để vùi sâu phân xuống dưới, sau đó để lắng đất, gạn bớt nước trong rồi mới cấy. Trường hợp nước lớn, ruộng có bờ bao, nước không chảy vẫn bón bình thường, lưu ý tránh không để chảy mất nước đục sẽ mất phân.- Đối với lúa gieo sạ: Bón ngay khi bừa chít trước khi lên luống gieo sạ.Nếu không có phân chuồng thì bón tăng lượng phân ĐYT NPK 6.11.2 bón lót thêm 2-3 kg/sào.2. Bón thúc:- Đối với lúa cấy: Trong vụ xuân, bón thúc ngay khi lúa ra lá mới lá nõn dong; trong vụ mùa, bón sau cấy 7- 10 ngày.- Đối với lúa gieo sạ: Trong vụ xuân, bón khi cây lúa có 3,5 - 4 lá lúa bắt đầu đẻ nhánh; trong vụ mùa, bón khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.Chỉ ở những chân ruộng mỏng mầu, rão nước, cát pha thì mới phải bón thúc lần 2 vào thời kỳ đón đòng, dùng 4kg - 5kg NPK 16.5.17 để thúc vào buổi chiều tạnh nắng, tuyệt đối không để phân dính trên lá.Lưu ý: Sử dụng phân đa yếu tố NPK chuyên dùng cho lúa giúp cây lúa khỏe, chống đổ tốt, đẻ nhánh tập trung, số dảnh hữu hiệu cao, lá đòng bền, có màu xanh vàng sáng, hạt mẩy, vỏ hạt sáng, ít sâu bệnh, năng suất cao, cải thiện độ chua của đất, hạn chế rong rêu, giảm lượng vôi bón ở chân ruộng chua, trũng. Sử dụng phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho lúa theo đúng chỉ dẫn không phải bón thêm bất kỳ loại phân nào khác, là chìa khóa để đạt được hiệu quả thâm canh cao.Phân bón Văn Điển thau chua, rửa mặn, bồi bổ đất Việt Nam.Công ty cổ phần Phân lân nung chảy Văn ĐiểnĐơn vị đạt 4 danh hiệu Anh hùng -Giải thưởng tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPOĐịa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội.Điện thoại: 043.688.4489 - 043.688.5174 - Fax: 043.688.4277 .. Phân bón khép kín NPK-S Lâm Thao cho lúa vụ xuân năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt Mô hình triển khai tại 2 điểm thuộc 2 huyện, gồm: Thôn Lam Điền xã Đông Động, huyện Đông Hưng 2 mô hình; xã Quang Bình, huyện Kiến Xương 1 mô hình. Mỗi mô hình 3ha, tổng diện tích thực hiện là 9ha. Quy trình bón phân được thục hiện theo quy trình bón phân khép kín của công ty: Bón lót: NPK-S5.10.3-8: 25kg/sào; bón thúc đẻ nhánh: NPK-S12.5.10-14: 9kg/sào; bón đón đòng: NPK-S12.5.10-14: 8kg/sào. Đối chứng theo tập quán bón phân thông thường ở địa phương. Trong suốt quá trình thực hiện mô hình, các cán bộ kỹ thuật của công ty kết hợp với Hội Nông dân tỉnh tổ chỉ đạo, theo dõi, đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, hướng dẫn bà con nông dân bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật. Ngày 11.6, Hội Nông dân tỉnh phối hợp với Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao tổ chức tổng kết mô hình tại xã Đông Động. Qua thực hiện mô hình trình diễn tại thôn Lam Điền đã đạt được kết quả cao, thể hiện: Ở giai đoạn mạ: Các giống trong mô hình và ngoài mô hình đều giống nhau, mạ khỏe, sức sinh trưởng tốt. Giai đoạn lúa cấy: Các giống lúa ở mô hình đẻ nhánh sớm, tập trung, lá xanh đẹp, lúa trỗ nhanh, gọn; các giống đối chứng đẻ nhánh không tập trung, lá xanh đậm hơn, thời gian lúa trỗ dài hơn, nhiều bông hơn nhưng tỷ lệ bông có số hạt dưới 100 hạt nhiều hơn, tỷ lệ lép cao hơn, số hạt chắc ít hơn. Mức độ sâu bệnh đều nhiễm nhẹ hơn so với đối chứng, đặc biệt là rầy nâu. Theo dõi trên giống lúa tại thôn Lam Điền cho thấy, trên nền phân bón NPK-S chuyên dụng của Lâm Thao, cây lúa phát triển cân đối, cứng, bộ lá khỏe, lúa đẻ tập trung hơn và tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao hơn so với ruộng đối chứng. Số dảnh đẻ tối đa đếm được số bình quân tương đương ở cả nền dùng phân chuyên dụng và đối chứng, nhưng tỷ lệ hữu hiệu ở nền phân chuyên dùng NPK-S Lâm Thao cao hơn so với đối chứng. Cụ thể năng suất lúa giống BC15 tại thôn Lam Điền là 260 kg/sào, giống Q5 là 270kg/sào vùng đối chứng giống BC15 năng suất là 230kg/sào, giống Q5 năng suất là 240kg/sào. Trên nền phân bón NPK-S Lâm Thao cây lúa có sức chống chịu sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng khá hơn, đặc biệt là bệnh đạo ôn và rầy. Kết quả cho thấy: Mô hình sử dụng phân bón NPK-S chuyên dụng Lâm Thao đều có các chỉ tiêu yếu tố cấu thành năng suất và năng suất tăng so với các ruộng sử dụng phân đơn. Mức tăng năng suất thực thu cuối cùng của mô hình bón phân NPK-S chuyên dụng so với phân đơn là 30kg lúa. Mặt hàng phân bón NPK có hoặc không bổ sung trung vi lượng loại khác thuộc mã số 3105.20.00.00, thuế suất thuế NK ưu đãi 6%. Đó là hướng dẫn của Tổng cục Hải quan trước vướng mắc của Công ty TNHH YARA Việt Nam và Công ty TNHH TM Hoàng Lê trong việc phân loại mặt hàng phân bón NPK có bổ sung trung vi lượng. Tổng cục Hải quan cho biết, căn cứ để phân loại mặt hàng này là Biểu Thuế NK ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư 184/2010/TT-BTC; tham khảo chú giải chi tiết HS 2007 nhóm 31.05. Doanh nghiệp nên liên hệ với cục hải quan tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp làm thủ tục NK để hop quy, phan bon npk được giải quyết cụ thể. T.Tr. Sản phẩm NPK Lam Sơn khi đưa vào sử dụng đạt năng suất cao và thân thiện với môi trường bởi trong quá trình sản xuất không có chất thải, sản xuất không cần nước, không có chất thải nóng… Năm 2013, công ty được trao các cup: Vì môi trường xanh quốc gia”; Sản phẩm uy tín 2013”, Nhãn hiệu nổi tiếng”; Sản phẩm chất lượng vàng”. Cà phê, một trong những loại cây rất ưa phân NPK dạng hạt - ảnh Internet .
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét